MỘT (3)
HOA HỒNG:
chị không còn nhìn thấy rõ những bông hồng nữa. Chị có lẽ sẽ phải bò bằng đầu gối đến tận giường. Vì say, đầu óc chị minh mẫn lạ lùng. Một người đàn bà như chị không thể có tình yêu. Không ai thích ôm một bộ áo giáp trong tay. Không phải lỗi ở chị. Không phải là lỗi của ai cả. Giá như chị có thể khóc. Thì chị đã không phải bò, những bức tường đã ngỏ lời cứu giúp chị. Chị ngủ thiếp đi khi chưa kịp thay quần áo.
LÀM MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ
Đàn ông có lẽ sợ đàn bà. Một số đàn ông thôi, và có lẽ cũng một số đàn bà thôi. Tuy nhiên, nỗi khiếp sợ này không có nghĩa lý gì khi đem so sánh với nỗi khiếp sợ mà người cùng giới gây ra. Những lần đánh đập của mẹ, ở tuổi yếu ớt nhất, chưa bao giờ mất đi sức mạnh tàn phá của chúng, vẻ nữ tính mới bắt đầu phát triển của chị đã làm cho mẹ chị tức tối điên cuồng, có lẽ do tuyệt vọng, phải, chắc chắn là tuyệt vọng rồi. Còn chị, con gái bà, thì bị chìm ngập trong nỗi ô nhục: cặp vú bắt đầu thây lẩy, máu rỉ ra trong quần lót, tất cả những thứ mà chị chịu bó tay không có cách gì đối phó.
ARTHUR RIMBAUD NÓI VỀ MẸ MÌNH.
Ngồi trong chiếc tháp của mình, chị đọc thơ Arthur Rimbaud, cả những bài thơ văn xuôi trong tập Mùa địa ngục. Hôm đó là chủ nhật. Chị nghe thấy tiếng chuông nhà thờ vang lên bên kia cửa sổ. Rồi cái khe giữa trời và đất khép kín lại và thế là đêm. Một khóe miệng của bóng tối, Rimbaud đã viết về mẹ mình như vậy tại Charleville.
Người mẹ, hay là mối nguy hiểm tuyệt đối.
MỘT NGƯỜI MẸ LINH HOẠT KHÔNG KÉM GÌ BẢY MƯƠI BA CHÍNH QUYỀN ĐỘI MŨ CÁTKÉT CHÌ
ông còn viết như vậy về Vitalie, người phụ nữ cứng rắn ấy. Con đường đến với phụ nữ đã bị ngáng trở đối với chàng trai trẻ này, cũng như con đường kia, con đường tình bạn, TÌNH BẰNG HỮU. Thế còn đàn ông? Chị tìm trên giá sách cuốn tiểu sử Rimbaud nhàu nát của Enid Starkie. Cha của Arthur Rimbaud là đại úy, theo những gì người ta được biết thì ông là một con người dễ cảm tình, được mọi người yêu mến. Ông đã bỏ nhà đi hồi con trai mới lên sáu và không bao giờ trở lại. Rimbaud mười sáu tuổi thì xảy ra vụ cưỡng hiếp tàn bạo của bọn lính trong trại lính phố Babylone, liền ngay trước ngày tuyên bố thành lập Công xã. Paris lâm vào cảnh hỗn loạn, đứa trẻ mới lớn trốn mẹ đi lang thang ngoài phố không xu dính túi. Theo Starkie, có một bài thơ kỷ niệm vụ này.
PHÓNG ĐÃNG, LÍNH TRÁNG.
Giữa những kẻ khạc nhổ bừa bãi, những tiếng cười khẩy, những công cụ sinh dục cương cứng, nhà thơ cầu xin ai đó hãy làm trong sạch hộ trái tim mình. Người bạn duy nhất tên là Izambard, một thày giáo trẻ được mọi người quý mến, không hiểu Rimbaud nói gì và giễu cợt lời ăn tiếng nói của cậu. Vụ hãm hiếp là một biến cố có tính quyết định, Starkie viết. Tuổi thơ vĩnh viễn không còn nữa. Cả tình bạn với Izambard cũng vậy. Cậu học sinh con nhà gia giáo đầy phần thưởng và bằng khen kia sống hết ngày này sang ngày khác trong các quán cà phê ở Charleville, bẩn thỉu, lôi thôi lếch thếch, rác bẩn dính đầy mồm. Những chuyện khôi hài tục tĩu của cậu, mua vui cho bọn người xúm quanh quầy rượu, được trả bằng rượu cônhắc và bia. Khi ở một mình trong thư viện, cậu chìm ngập trong thế giới thần linh, những trò pháp thuật, ma thuật và xảo thuật. Nhằm chạy trốn thực tại. Cuộc hành trình giờ đây chạy thẳng vào nội tâm. Con người viễn tưởng đã ra đời như vậy, ước mơ đến sự hợp nhất trong cái đơn nhất, khi hàng vạn thứ đã bị nổ tung, tan tác, rách nát, vung vãi đi khắp thế giới cuối cùng lại dính lại với nhau. Có thể coi đấy là một sự bùng phát khổng lồ ở đứa trẻ mồ côi, đúng thế, nhưng đây là một kẻ khổng lồ về ngôn ngữ. Tiếp theo là những ngày tháng phiêu bạt lang thang và thời gian sống với Verlaine, người tình yếu đuối, mau nước mắt và không đáng tin cậy. Cuộc đối thoại ồn ã giữa bầu trời và địa ngục, giữa nàng trinh nữ điên rồ với vị hoàng tử của bóng đêm, bị cắt ngang bởi những tiếng kêu la, đúng như những tiếng la hét của một đứa trẻ bị hành hạ:
LẠY CHÚA, XIN HÃY RỦ LÒNG THƯƠNG XÓT, XIN HÃY CHE GIẤU CON, CON CHỊU ĐỰNG HẾT NỔI RỒI!
Những tiếng thốt ra từ miệng chàng thiếu niên này, một kẻ trong quãng đời từ lúc mười bảy đến mười chín tuổi đã làm đảo điên cả nền thi ca, đến nay hãy còn gây ra những vết đau rát bỏng. Tiếp đến là những năm tháng đau đớn, ghê sợ ở châu Phi: sám hối về sự bùng phát này. Vì vậy mà đã phải xin ân xá cho những bài thơ bạo lực. Rimbaud không bao giờ viết thêm bài thơ nào khác như vậy nữa. Chàng cố cứu chuộc mình trước con mắt của mẹ: trở thành một kẻ có vị trí xã hội, một con người. Vàng, loại vàng đích thực, đã buộc phải trả lại cái giá trị mà chàng trước kia đã tìm kiếm ở những biểu tượng. Chàng đã tiến hành một cuộc thử nghiệm ngay trong thực tế nhưng không đạt kết quả. Tiếp theo là những mưu tính tuyệt vọng, thấy trước là thất bại, để kiếm tiền thật nhiều: tổ chức những đoàn lái buôn vượt qua sa mạc, mua bán vũ khí, những chuyến đi điên rồ và có lẽ cả việc mua bán nô lệ nữa. Chàng đã không thành công được ở một việc gì. Nỗi cô đơn tàn phá tâm hồn chàng. Trong thư gửi mẹ, chàng đã tìm cách nói dối: ở đây, con được trọng vọng, con chỉ muốn thu thập được đủ vàng để trở về, lấy vợ đẻ con. Chàng không cho phép mình tiêu xài phí phạm chút gì. Kể cả mua quần áo trong mùa đông vốn rất lạnh trên vùng núi cao. Khi cảm thấy cuối cùng đã có thể tích lũy được một số vốn nho nhỏ thì chàng bị căn bệnh hoại thư hành hạ. Chàng cắn răng chịu đau đớn, buộc băng vào chân, và có những cố gắng còn lớn hơn nữa. Chàng tưởng là bệnh sẽ qua. Sau cùng, chàng hiểu là không qua được. Chuyến đi kinh khủng đến tận bờ biển Xômali trong những điều kiện cực khổ, phải nằm dài trong nhiều tuần lễ trên cái cáng tự tạo, trong cơn mưa như trút nước và cái nóng như trong lò - cố gắng lắm chị mới đọc nổi câu chuyện này. Việc cưa chân ở Marseille cũng thế. Chàng khao khát tình yêu. Chàng giống như đứa trẻ trước mặt là người mẹ đến thăm mình. Và chuyến đi mê sảng cuối cùng tới Charleville, nơi cô em gái đã để hết tâm huyết vào việc chăm sóc người anh trai sống chui lủi nhưng vẫn được ngưỡng mộ. Hầu như lúc nào chàng cũng chuyếnh choáng, cả ngày ngồi trong chiếc ghế bành, mồm lẩm bẩm những gì không ngớt. Giữa đêm tối, chàng muốn đứng dậy khỏi giường mà không có cái chân giả, và thế là ngã lăn kềnh. Sau đó là việc trở về bệnh viện như một con vật trở lại lò sát sinh, toàn thân bị tê liệt. Cái chết xảy ra ba tuần sau kỷ niệm ngày sinh lần thứ ba mươi bảy của chàng.
Lời ăn tiếng nói của chàng thiếu niên này cùng với số phận chàng, cuộc đời chàng, từ ấy luôn luôn đi cùng với chàng.
ĐIỆN THOẠI.
Tối hôm đó, chị đã muốn gọi điện thoại nhưng máy không có tín hiệu. Điện thoại hỏng rồi. Không ai liên lạc được với chị và về phía mình, chị cũng không gọi được cho ai cả. Càng hay. Bên ngoài trời đã tối, một đêm tối không trăng sao.
HARAR.
Chị đã đáp con tàu nhỏ từ Addis-Abeba đi Djibouti nằm trên bờ biển Xômali. Một chàng thanh niên trẻ tuổi đi cùng với chị, một nhà nhân loại học mà chị đã gặp ở tỉnh Kaffa. Ở Diredawa, hai người đã qua đêm trong một gian phòng nền láng xi măng, trên trần treo một cái quạt sét gỉ. Đến sáng, trời rất lạnh. Họ không tìm đâu ra cái ăn, ngược lại có rất nhiều kẻ buôn lậu chào bán chủ yếu là đồng hồ, thuốc lá. Không khí có mùi khói than gỗ. Họ thuê một chiếc xe ô tô cùng với lái xe. Sau chặng đường xóc trên cao nguyên, họ nhìn thấy ngọn tháp trắng của đền thờ Hồi giáo trên nền trời hồng tươi bên trên những bức tường trắng toát của thành phố. Chính tại đây, ở thành phố này, Rimbaud đã thiết lập trụ sở tạm bợ của mình. Trước Rimbaud ba mươi năm, người Âu đầu tiên đặt chân đến Harar là nhà thám hiểm Richard Burton, cải trang thành phụ nữ. Ông này lưu lại đó không lâu. Rimbaud là người da trắng đầu tiên định cư tại đó. Một nhân chứng sau này kể lại: Rimbaud là người rất sùng đạo, chàng không từ một nỗ lực nào để đến cứu giúp đồng loại. Chị cũng vậy, trong chuyến đi Harar lần này, chị cũng cải trang thành một người đàn bà, bụng mang thai gần bảy tháng. Cải trang, tại sao chị lại nghĩ ra như vậy? Bởi vì phụ nữ có thai bảy tháng mà một mình lăng xăng khắp nơi là những người điên. Vô cùng xúc động, chị cảm cái thai ngọ nguậy dưới đôi tay mình trong khi chị lang thang trong cuộc sống đi tìm những dấu vết của Rimbaud. Chị leo thử cầu thang ở những ngôi nhà chàng đã từng sống. Ở tầng nào chị cũng thấy những kẻ rách rưới nằm dài ngổn ngang, những kẻ đau ốm ho lụ sụ liên hồi. Chị đi dạo tại quảng trường trước khu chợ có những bóng người mặc đồ trắng ngồi sụp bên cạnh đống hàng hóa của mình rất giống những bức ảnh mà Rimbaud đã chụp. Chị không phát hiện được vết tích nào khác về chàng. Rimbaud đã không để lại gì. Ánh nắng mà những bức tường trắng hắt lại đập mạnh vào người ta chan chát như một thanh củi. Cha của đứa trẻ sắp ra đời đang ở Stockholm. Anh đã không muốn chị đi. Nhưng chị vẫn cứ đi, không phải cốt làm trái ý anh mà bởi vì chị muốn đi. Đúng là một sự hỗn độn bướng bỉnh ở người mẹ trẻ lương lai này.
Ở MỖI CON NGƯỜI DƯỜNG NHƯ CÓ NHIỀU CUỘC ĐỜI KHÁC NỮA…
Rimbaud đã viết. Tại một trong những cuộc đời này, chị đã đi Harar như một cuộc chạy trốn, như thể ta có thể sống nhiều cuộc đời trong một con người. Sai lầm của chị, không có sự so sánh nào khác, có lẽ cũng là một với sai lầm của nhà thơ: tưởng lời giải cho điều bí ẩn nằm trong thế giới. Từ Harar, chị đi tiếp một mình lên phía bắc. Một buổi chiều, chị bỗng thấy mình cùng với cái bụng tròn xoe đứng trước căn cứ Mỹ ở Asmara: KAGNEW STATION. Một cái cổng lớn bằng sắt; nhiều kẻ ăn mày. Binh lính Mỹ, súng tiểu liên lủng lẳng đeo vai, giám sát đám nhân viên trong đó có những con cái binh lính của Mussolini còn ở lại đây sau khi chấm dứt sự chiếm đóng của Italia. Người phụ nữ Âu bụng chửa định vượt qua hàng rào nhưng bị đẩy lùi lại. Từ Asmara, chị đi xe buýt đến tận Massawa trên bờ Biển Đỏ. Những con đường loằng ngoằng, những mảng núi đá lớn sắc cạnh, những vệt sáng bạc trên bầu trời. Từng quãng cách nhau đều đặn, lính của Hailé Sélassié chặn xe buýt lại để lục soát hành khách xem có đem theo vũ khí hay không. Chiến tranh với du kích Erythrea diễn ra vào ban đêm. Đám lính không nhìn chị. Không ai đụng chạm gì đến chị. Ở Massawa, chị gặp hai thanh niên Mỹ của trạm Kagnew, trẻ hơn chị. Họ thuê một chiếc thuyền; người chèo thuyền da sạm nắng. Một ngày rất nóng, họ bỏ hàng giờ đi tìm sò trong những dải cát uốn lượn mềm mại, dưới bầu trời xanh ngắt. Rimbaud đã sống cũng dưới bầu trời này. Chàng đã đi từ Aden đến Massawa. Viên lãnh sự Pháp đã giữ chàng lại vì vẻ ngoài khả nghi: quần áo tả tơi, mặt già sọm. Chị nằm trong phòng mình tại khách sạn ngoài hải cảng đọc cuốn tiểu sử của Starkie. Khách sạn có tiếng xấu, một vết tích thời thuộc địa của Italia. Phần lớn thời gian, chị nằm dài, bất động, mắt nhắm nghiền. Trong phòng nóng ngột ngạt. Ánh nắng len lỏi qua những ô cửa sứt mẻ. Chiếc quạt trần đã trút hơi thở cuối cùng. Chị cảm thấy cái thai trở mình dưới lòng bàn tay. Chị sung sướng.
TRƯỚC MẶT NHIỀU NGƯỜI ĐÀN ÔNG, TÔI NÓI CHUYỆN VANG VANG VỚI MỘT KHOẢNH KHẮC CỦA MỘT TRONG NHỮNG CUỘC ĐỜI KHÁC CỦA HỌ…
Rimbaud đã viết. Chính chị cũng hay làm như thế. Chị đã nói chuyện với những khoảnh khắc trong cuộc đời của những người khác mà họ không chịu thừa nhận. Chị đã nhận ra trong họ những dòng chảy, những dao động và những xáo trộn mà chính họ không ngờ là chúng tồn tại, và thế là chị bị xua đuổi. Một điều nhỏ nhặt nhất cũng làm chị bị tổn thương. Chị tự bênh vực mình một cách mãnh liệt, quá khích, và để chống lại cái gì? Chị không cảm thấy mình được yêu chiều. Bố của đứa trẻ sắp ra đời đã ngoảnh đi khi chị báo tin với anh là chị có mang. Anh nhún vai. Em là người quyết định, anh nói. Chị đã che giấu nỗi thất vọng của mình. Chị cũng không biết làm thế nào để bày tỏ sự thất vọng của mình. Khi những cơn buồn nôn trong nửa đầu thời gian có thai dịu dần, chị lên đường đi châu Phi.
ÔNG NÀY KHÔNG BIẾT MÌNH ĐANG LÀM GÌ: ÔNG ẤY LÀ MỘT THIÊN THẦN…
Rimbaud đã viết. Quá nhiều người là thiên thần. Họ không biết họ đang làm gì. Cha chị là một thiên thần. Và cha đứa con của chị thì sao? Không, anh ta không thế. Anh biết những gì anh làm. Anh đã không ra đón chị ở phi trường khi chị ở châu Phi về. Trong sảnh dành cho hành khách đến ở Arlanda, chị chỉ có một mình với hai cánh tay tự do đung đưa, cùng với chiếc vali lớn và cái bụng nặng nề. Chị đã nghĩ nhiều về anh, chị thấy thiếu vắng anh. Chị cảm thấy nước mắt rưng rưng sắp trào. Chị chỉ biết tự trách mình. Chị đã cứ ra đi mặc dù anh phản đối. Chị đã viết một loạt bài về nước Ethiopia: sự cùng khổ đau thương, cuộc chiến ở miền bắc. Chị đã không viết gì về Rimbaud. Rimbaud là một điều bí ẩn. Vào đúng lúc chị kết thúc bài viết cuối cùng thì chị chuyển dạ, vỡ màng ối. Chị cảm thấy chết ở bên trong. Tại sao chị lại không thể cứ ngã lăn ra đất, bứt đầu bứt tóc, kêu lên nỗi tuyệt vọng của mình là không được yêu như những phụ nữ khác, những người phụ nữ bình thường?
ĐẠO ĐỨC LÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA BỘ ÓC..
Rimbaud đã viết. Trong khi tháng Mười chầm chậm trèo lên cỗ xe tang của tháng Mười một, chị ngỡ mình đã hiểu đầy đủ Rimbaud muốn nói gì ở đây.
NHỮNG CẶP ĐỐI LẬP
tạo thành cấu trúc của sự sống. Có nóng thì có lạnh. Có sáng thì có tối. Có người này thì phải có người kia. Nếu như các mặt đối lập không tồn tại thì sự vận động của sự sống dừng lại. Thời gian cũng vậy. Nhưng các mặt đối lập không phải lúc nào cũng ở những chỗ mà ta tưởng. Bóng tối lại chứa đựng một ánh sáng đặc biệt. Mỗi giới tính cũng lại có một chỗ trú ngụ trong giới tính kia. Tình trạng đơn ứng là thứ chỉ chứa đựng có cái chết.
TÌNH CẢM YÊU ĐƯƠNG
cuốn hút ta bằng cách phô trương việc xóa bỏ những mặt đối lập. Nó cho ta thấy những chiều sâu không thể ngờ tới ở trong ta. Thế là những cuộc đời khác của ta dồn cả lại trên ranh giới của ý thức và đòi được náu mình tại đó. Cái gì cũng đều có thể xảy ra. Ta rơi vào trong kẻ khác như vào trong một cái giếng, tiếng nhạc của kẻ khác ấy vang lên trong ta, nó chìa ra cho ta cái chìa khóa thần kỳ, chính cái chìa khóa mà ta đã đánh mất từ bao lâu nay. Nặng lòng biết ơn, ta bước ra khỏi cái lồng chật hẹp của cái tôi. Là kẻ bị què cụt, ta trở lại thành người nguyên vẹn. Chị đã đem lòng yêu Jacob theo cách đó. Hoàn toàn không có gì nghi ngờ là cả Jacob nữa cũng chìm ngập trong một xúc cảm kiểu như vậy. Nhưng tiếc thay, anh xúc cảm không phải vì chị, mà vì một người đàn bà khác. Làm sao có thể trách anh sao đã muốn đến với những cuộc đời khác mà anh cũng có quyền trú thân trong đó? Chị không trách móc gì anh. Duy có điều là nỗi đau đã vượt quá giới hạn chịu đựng. Jacob không chịu buông tha chị ra. Thế mà, chị vẫn đơn độc, bị đánh đập, bị tra tấn, và chị nhìn thấy cái gì ngay lúc đó? Một bộ áo giáp lắc lư, xa, rất xa, những người đang sống. Và đó là chị. Lạy Chúa, xin cho tôi uống nước.
NƯỚC RỪNG MẤT ĐI TRÊN NHỮNG BÃI CÁT NGUYÊN SƠ…
Rimbaud đã viết, nhưng chị không thể đọc tiếp thêm nữa. Chị buông cuốn sách dịch của Gunnar Ekel cùng những cuốn sách khác và ngã ra giường.
THỨ HAI
Trường đại học. Chị ngắm những gương mặt non trẻ chung quanh chiếc bàn hội thảo. Chị đáp tàu điện về nhà. Con tàu lắc mạnh chị, trong cái bóng tối của tháng Mười một quá đỗi mịt mùng, quá đỗi nén chặt đến nỗi chị suýt nữa làm nó nghẹt thở.
ĐIỆN THOẠI
chết rồi.
NGƯỜI LÁNG GIỀNG
cũng cô đơn như chị nhưng già, đã quá tám mươi, góa vợ, một con voi già với con mắt ướt nhèm và cái mũi to, khua loảng xoảng cái dây xích khá lâu rồi mới để chị vào. Trong khi chị gọi điện thoại đến hãng Télécoms, ông lôi từ trong tủ ra một chai rượu sherry. Gian phòng có mùi mốc meo. Chị giúp ông ta một tay gỡ bỏ đống báo và áo xống trên hai chiếc ghế rồi hai người cùng ngồi uống rượu với nhau ở cái bàn trong bếp. Vậy có thể mong chờ sự hòa giải gì ở tuổi già, ở quá trình lão hóa?
BÁO CHÍ, TRUYỀN HÌNH
Trên báo, người ta kể rằng tổng thống Mỹ dự tính hoàn thành hành động của mình bằng cách giành được việc gỡ bỏ bao vây đối với Sarajevo. Các nhà bình luận Thụy Điển giữ thái độ dè chừng và tiên đoán sẽ có tắm máu. Chị buông rơi tờ báo. Trên truyền hình, người ta dùng những mũi tên đỏ để chỉ dẫn bước tiến của quân đội Nam Tư. Một viên tướng Serbia dáng dấp như một thủ lĩnh mafia ngoác miệng cười khoe đủ bộ răng giả bóng loáng. Chị tắt đài. Chị gọi điện thoại cho người chị yêu quý, một việc làm quá sức chị.
HOA HỒNG
chị không ám chỉ đến hoa hồng trong câu chuyện. Anh có vẻ hài lòng được nghe tiếng chị nói. Hài lòng đến mức không thế hiểu được. Hai người nói chuyện điện thoại khá lâu. Anh nhớ chị, anh nói. Khi ấy chị không thể không hỏi anh tin tức về người kia. Câu trả lời đến ngay tức thì: họ sẽ cùng nhau đi du lịch đến New York. Chị không hỏi câu nào thêm nữa. Anh muốn đến thăm chị trước khi đi, anh nói. Anh đau khổ vì không được gặp chị từ quá lâu rồi, từ nhiều tuần nay. Tối nay được không? Con người này, chị nghĩ, đúng là một ông thánh. Tàn nhẫn như một thiên thần. Gương mặt mệt mỏi của giáo sư Falkhom hiện ra trước mắt chị với chiếc khăn quàng màu rượu đỏ và bao thuốc lá Fortuna. Chị bảo hai người phải thôi gặp nhau. Cái giá phải trả đã quá cao. Nỗi đau đang làm chị phát điên. Một lúc im lặng. Anh không thể phản bác ý chị, anh nói. Làm như thế thật là một tội ác, mà anh thì không phải kẻ gây ra tội ác. Anh đau khổ trước nỗi đau mà anh gây ra cho chị, cũng như nỗi đau mà anh gây ra cho người kia. Ban đầu, việc yêu hai người đàn bà được anh coi như là một sự giàu sang vô cùng. Đau khổ về sau mới đến. Anh không muốn chia tay với cả người này lẫn người kia. Dù anh chọn cách nào thì cũng là một sự mất mát. Vậy anh đã chọn cách không chọn gì cả, thì cũng như nhau. Sự mất mát từ từ tiến đến, không gì ngăn cản được, anh nói, và anh rất sợ điều đó. Chị biết anh thành thực. Người đàn ông này không nói dối. Họ khóc cùng nhau. Thế rồi hết. Chị vẫn ngồi bên điện thoại, mắt đăm đăm nhìn vào bóng tối tháng Mười một bên ngoài, ở phía bên kia mặt vịnh, một quầng ánh sáng đo đỏ quay tròn phản chiếu trong làn nước vô hình. Chị bật tất cả đèn lên cho đến khi gian phòng chìm ngập trong ánh sáng. Chị bắt đầu đẩy máy hút bụi. Bỗng chị nghe thấy tiếng điện thoại. Nó reo có lẽ từ lâu rồi. Chị chạy vội ra trả lời, vấp cả vào dây máy hút bụi và trăm thứ chất đống chỗ cửa ra vào. Thoạt tiên, chị không hiểu ai gọi cho chị. Giọng nói nghe xa lạ.
BUT IT’S ME![13]
Chị không nhận ra giọng nói.
I HAVE BEEN CALLING FOR MORE THAN AN HOUR, WHOM THE HELL HAVE YOU BEEN TALKING TO FOR so LONG?[14]
Chị không có ý định trả lời câu hỏi này. Chị ngồi lên chiếc ghế đẩu nhặt được giữa đống lộn xộn. Đấy là Emm. Gương mặt anh hiện lên dần dần, như một bức ảnh hiện dần lên trong khay thuốc hiện hình. Anh khoái chí cười trước sự bối rối của chị. Không, không phải là anh nhập cư. Anh đến Stockholm để viết một báo cáo về vùng Balkans, anh đã nhận được tiền của Thụy Điển để viết. Anh hy vọng hai người sẽ sớm gặp nhau. Giọng anh nhẹ nhàng, vui vẻ. Chị nhìn đồng hồ. Đến lúc này chưa được nửa giờ kể từ cuộc nói chuyện điện thoại kết thúc cuộc hôn nhân của chị, KAPUTT MIT DIESER EHE[15]. Trong không đến nửa giờ, thế hả giáo sư? Xem ra hơi khó tin.
Chú thích:
[13] Anh đây mà!
[14] Anh gọi cho em dễ đến một tiếng đồng hồ, em nói chuyện với ai lâu thế?
[15] Chấm dứt cuộc hôn nhân này.