PHẦN II Chương 6.
PHẦN HAI
1993 - 1995
Giai đoạn cuối của lứa tuổi hai mươi
“Chúng ta đã chi tiêu nhiều tiền hết mức có thể và chỉ nhận về phần ít ỏi mà mọi người quyết định trao cho mình. Chúng ta ít nhiều đều đang khốn khổ, và hầu hết những người mà chúng ta quen biết cũng đều ở trong hoàn cảnh tương tự. Có một hư cấu hân hoan giữa chúng ta rằng chúng ta luôn vui vẻ, và một sự thật trần trụi rằng thực ra không phải thế. Theo hiểu biết của bản thân tôi, trường hợp của chúng ta là khá phổ biến, xét đến tận khía cạnh cuối cùng.”
Charles Dickens, Gia tài vĩ đại
CHƯƠNG 6
Hóa chất
Thứ Năm, ngày 15 tháng Bảy năm 1993
Phần một - Câu chuyện của Dexter
Brixton, Earls Court và Oxfordshire
Những ngày gần đây, ngày và đêm dường như hòa lẫn vào nhau. Các khái niệm cũ như “buổi sáng” và “buổi chiều” đã trở nên lỗi thời và Dexter được ngắm nhiều buổi bình minh hơn so với trước đây.
Ngày 15 tháng Bảy năm 1993, mặt trời mọc lúc 5 giờ 1 phút sáng. Ngồi ở ghế sau của một chiếc xe taxi nhỏ xập xệ, Dexter ngắm nhìn cảnh mặt trời mọc khi anh trở về nhà từ căn hộ của một người lạ ở Brixton. Không hẳn là người lạ mà là một người bạn mới toanh, một trong những người bạn mà anh quen được trong những ngày gần đây, lần này là một nhà thiết kế đồ họa có tên Gibbs hay Gibbsy, hoặc có lẽ Biggsy, và bạn anh, cô gái điên rồ này có tên là Tara, người nhỏ nhắn với hai mí mắt nặng trĩu, lờ đờ và cái miệng đỏ thắm, không nói nhiều nhưng lại thích giao tiếp thông qua hình thức xoa bóp.
Anh gặp Tara trước, ngay sau hai giờ sáng tại một hộp đêm bên dưới mái vòm ga tàu điện. Suốt đêm hôm đó, anh đã nhìn thấy cô trên sàn nhảy, một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt xinh đẹp như tiên khi cô bỗng xuất hiện phía sau lưng những người xa lạ và bắt đầu xoa vai hoặc bóp gáy của họ. Cuối cùng đến lượt Dexter, anh gật đầu, mỉm cười và chờ đợi được nhận diện. Vẻ quả quyết, cô gái cau mày, chạm mấy ngón tay vào đầu mũi anh và nói ra điều mà tất cả mọi người đều nói lúc này.
“Anh là người nổi tiếng!”
“Thế cô là ai?” anh hét lên trong tiếng nhạc, nắm hai bàn tay nhỏ nhắn gầy guộc của cô trong trong tay anh, giữ chúng ở hai bên như thể đây là một cuộc đoàn tụ đặc biệt nào đo.
“Tôi là Tara!”
“Tara! Tara! Chào Tara!”
“Anh là người nổi tiếng à? Sao anh lại nổi tiếng được? Kể tôi nghe đi!”
“Tôi xuất hiện trên truyền hình. Tôi tham gia một chương trình truyền hình có tên largin’it. Tôi phỏng vấn các ngôi sao nhạc pop.”
“Tôi biết ngay mà! Anh là người nổi tiếng!” cô vui mừng hét lên, sau đó nhón chân hôn vào má anh, và cô làm điều dễ thương đến mức anh phải hét lên trong tiếng nhạc. “Cô thật đáng yêu,Tara!”
“Tôi đáng yêu!” cô hét lại. “Tôi đáng yêu, nhưng tôi không nổi tiếng.”
“Nhưng cô cần phải nổi tiếng!” Dexter hét lên, hai tay ôm eo cô. “Tôi nghĩ mọi người cần phải nổi tiếng.”
Lời nhận xét đó chẳng có chút suy nghĩ hoặc ý nghĩa nào, nhưng cách thể hiện của Dexter dường như khiến Tara cảm động bởi vì cô kêu lên “Aaaaa!”, rồi đứng bằng đầu ngón chân và tựa cái đầu nhỏ nhắn của cô lên vai anh. “Tôi nghĩ anh thật đáng yêu,” cô hét vào tai anh, và anh hoàn toàn đồng ý. “Cô cũng đáng yêu,” anh nói, và họ thấy mình cứ rơi vào cái vòng “đáng yêu” đó mà có thể không biết đến bao giờ mới kết thúc. Lúc này, họ đang nhảy cùng nhau, hôn vào má nhau, nhìn nhau cười và một lần nữa, Dexter nhận ra rằng cuộc đối thoại trở nên dễ dàng nhường nào khi không ai ở trạng thái đủ tỉnh táo. Trước đây, khi con người chỉ có rượu là phương tiện duy nhất, việc nói chuyện với một cô gái thường bao gồm đủ kiểu giao tiếp bằng mắt, mua đồ uống, hàng giờ nói chuyện khách sáo về sách vở, phim ảnh, bố mẹ và anh chị em. Nhưng ngày nay, có thể đạt được kết quả gần như ngay tức thì từ câu hỏi “tên bạn là gì?” cho đến “cho tôi xem hình xăm của anh,” hoặc “quần lót của cô màu gì?” và chắc chắn cách này phải có tiến triển.
“Cô thật đáng yêu,” anh hét lên khi cô áp cặp mông vào đùi anh. “Cô thật sự rất nhỏ, giống như một con chim vậy!”
“Nhưng tôi khỏe như một con bò đấy,” cô hét lại qua vai mình và gồng cánh tay lên để tạo thành một cái bắp to bằng quả quýt. Đó là một bắp tay nhỏ tuyệt đẹp đến mức anh muốn hôn vào nó. “Anh thật thú vị. Anh rất là thú vị.”
“Cô cũng thú vị,” anh hét lại và nghĩ thầm, ôi lạy Chúa, điều này quả đúng là tuyệt vời đến khó tin, cái kiểu khen đi khen lại này, đúng là tuyệt. Cô ta nhỏ nhắn và gọn gàng đến mức khiến anh nghĩ đến một con chim hồng tước nhỏ, nhưng không thể nào nhớ ra từ “chim hồng tước,” vì thế anh nắm lấy tay cô kéo về phía mình và hét vào tai cô. “Tên của loài chim nhỏ có thể chui vừa một bao diêm là gì?”
“Gì cơ?”
“MỘT LOÀI CHIM MÀ CÔ CÓ THỂ ĐẶT VỪA TRONG MỘT BAO DIÊM MỘT CHÚ CHIM NHỎ CÔ GIỐNG NHƯ MỘT CHÚ CHIM NHỎ NHƯNG TÔI KHÔNG THỂ NHỚ RA TÊN CỦA NÓ.” Anh dùng ngón trỏ và ngón cái ra dấu khoảng cách vài xen ti mét. “CHÚ CHIM NHỎ, CÔ GIỐNG NHƯ THẾ.”
Và cô gật đầu, có thể là biểu hiện đồng ý hoặc cũng có thể chỉ là gật gù theo tiếng nhạc, hai mí mắt nặng trĩu của cô lúc này đang nháy nháy, hai đồng tử giãn ra, hai nhãn cầu đảo ngược lên trên giống như một trong những con búp bê của chị gái anh và Dexter không còn nhớ nổi mình đang nói về điều gì, không thể nào hiểu được bất cứ điều gì suốt một lúc, vì thế nên khi Tara siết chặt tay anh và nói với anh một lần nữa rằng anh thật sự rất đáng yêu và rằng anh phải đến gặp các bạn của cô vì họ cũng đáng yêu, anh đã không hề phản đối.
Anh nhìn quanh tìm Callum O’Neill, bạn cũ cùng phòng với anh thời sinh viên và nhìn thấy anh ta đang mặc áo khoác. Từng là người đàn ông lười biếng nhất Edinburgh, nhưng Callum hiện là một doanh nhân thành đạt, một gã to lớn trong những bộ cánh đắt tiền, làm giàu từ những chiếc máy tính được tân trang lại. Nhưng đi kèm với thành công đó là một nếp sống điều độ; không ma túy, không uống quá nhiều rượu vào một tối trong tuần. Anh ta trông không thoải mái ở đây, một kẻ cổ lỗ sĩ. Dexter bước đến gần và túm lấy hai tay anh ta.
“Định đi đâu đấy, anh bạn?”
“Về nhà! Đã hai giờ sáng rồi. Mình còn phải làm việc.”
“Đi với tớ. Tớ muốn cậu gặp Tara!”
“Dex, tớ không muốn gặp Tara nào hết. Tớ phải đi đây.”
“Cậu biết cậu là gì không? Cậu là một kẻ tầm thường!”
“Còn cậu là một tên nát rượu. Đi đi, cứ làm những gì cậu thích. Mai tớ sẽ gọi cho cậu.”
Dexter ôm Callum, và nói rằng anh ta tuyệt vời nhường nào, nhưng Tara lại giật mạnh tay anh một lần nữa, và vì thế, cậu xoay lại để mặc mình bị lôi xềnh xệch qua đám đông hướng về phía một trong những căn phòng cách âm.
Đây là một câu lạc bộ đắt tiền và được cho là cao cấp, mặc dù thời gian gần đây, Dexter hiếm khi phải trả tiền cho bất kỳ thứ gì. Không khí cũng hơi trầm lặng đối với một buổi tối thứ Năm, nhưng ít ra ở đây không có tiếng nhạc techno kinh hãi, hoặc những đứa trẻ đáng sợ, những kẻ cạo trọc đầu trơ xương chuyên phanh áo ra, nhe răng, bạnh hàm và nhìn đểu bạn. Thay vào đó, lúc này chủ yếu là những người ở độ tuổi đôi mươi thuộc tầng lớp trung lưu, trông vui vẻ và lôi cuốn, những người phù hợp với anh, giống như các bạn của Tara ở đây, ngồi giữa những chiếc gối to, hút thuốc, trò chuyện và nhóp nhép nhai kẹo cao su. Anh gặp Gibbsy, hoặc Biggsy, Tash đáng yêu và bạn trai của cô ta Stu Stewpot,và Spex, người đeo kính râm và bạn trai của anh ta, Mark, và chán thật, anh ta dường như chỉ được gọi là Mark, và tất cả bọn họ đều mời anh kẹo cao su, nước uống và thuốc lá Marlboro Light. Người ta thường xem tình bạn như một điều gì thật to tát, nhưng ở đây nó lại vô cùng giản đơn, và chẳng bao lâu, anh bắt đầu hình dung mọi người vui vẻ tụ tập, cùng đi nghỉ mát trên một chiếc xe tải, tổ chức tiệc nướng trên bãi biển khi chiều xuống, và họ cũng có vẻ thích anh, hỏi anh về cảm giác xuất hiện trên truyền hình, rồi anh đã gặp những người nổi tiếng nào, và anh kể cho họ nghe một số đồn đại tục tĩu trong khi Tara ngồi phía sau, xoa bóp cổ và hai vai anh bằng những ngón tay nhỏ nhắn gầy guộc của mình, gây cho anh những cơn phấn khích nho nhỏ cho đến khi bỗng vì lý do nào đó mà cuộc nói chuyện dừng lại, có lẽ im lặng đến năm giây, nhưng đủ lâu để bàng hoàng sực tỉnh và nhớ ra những gì anh cần phải làm ngày mai, không, không phải ngày mai mà là ngày hôm nay, ôi lạy Chúa, cuối ngày hôm nay, và lần đầu tiên trong đêm hôm đó anh cảm nhận được sự rùng mình sợ hãi.
Nhưng mọi thứ vẫn ổn, vẫn bình thường,vì Tara đang bảo tất cả cùng ra sàn nhảy trước khi thuốc hết tác dụng, vì thế, tất cả bọn họ đều đứng thành vòng cung theo từng nhóm rải rác đối mặt với DJ và ánh sáng, và họ nhảy một lúc trong làn khói sân khấu, cười toe toét, lông mày nhíu lại, gật đầu trao cho nhau những cái cau mày khó hiểu, nhưng những cái gật đầu và tiếng cười lúc này đã bớt phấn khích hơn, chỉ là sự cần thiết để khẳng định với nhau rằng họ vẫn còn đang vui vẻ, rằng khoảnh khắc đó không bao giờ chấm dứt. Dexter tự hỏi liệu mình có nên cởi áo sơ mi ra, hành động này đôi khi có tác dụng, nhưng lúc này thì không. Ai đó bên cạnh hét lên một cách ỉu xìu “chỉnh nhạc”, nhưng chẳng ai nghe theo, chẳng có gì thay đổi. Kẻ thù, trạng thái tỉnh táo, bắt đầu xâm lấn vào cơ thể họ và Gibbsy hay Biggsy là người đầu tiên lên tiếng, cho rằng cái thứ nhạc này giống như đồ bỏ đi và ngay lập tức tất cả mọi người đều ngừng nhảy như thể một câu thần chú đã được giải.
Khi đến lối ra của câu lạc bộ, Dexter bắt đầu hình dung quãng đường về nhà, đám lái xe taxi “dù” đầy hung hãn đang đứng bên ngoài, nỗi sợ hãi vô cớ là mình sẽ bị sát hại, căn hộ trống rỗng tại Belsize Park, nhiều giờ mất ngủ sau khi tắm rửa và sắp xếp lại chồng băng đĩa cho đến khi tiếng thình thịch trong đầu chấm dứt và anh có thể chợp mắt để đối mặt với ngày mới, và một lần nữa anh cảm thấy một cơn sợ hãi. Anh cần có người bên cạnh. Anh nhìn quanh để tìm một buồng điện thoại công cộng. Anh biết Callum vẫn còn thức, nhưng một người đàn ông lúc này không giúp ích được gì cho anh. Anh có thể gọi cho Naomi, nhưng cô ấy có thể đang ở cùng bạn trai, hoặc Ingrid Đáng sợ nhưng cô ấy đã nói nếu gặp lại anh lần nữa, cô ấy sẽ moi tim anh ra, hay là Emma, phải rồi Emma, không, không phải Emma, không phải trong tình trạng này, cô ấy sẽ không thích, không tán thành. Song chính Emma là người anh muốn gặp nhất. Sao cô lại không ở bên anh tối nay? Anh đang muốn hỏi cô ấy tất cả những điều này như vì sao họ lại không bao giờ đến với nhau, họ sẽ là một cặp, một đôi tuyệt vời, Dex và Em, Em và Dex, mọi người đều nói thế. Anh bỗng kinh ngạc nhận ra tình yêu mãnh liệt mà mình dành cho Emma, và anh quyết định đón taxi đến quận Earls Court để nói với cô rằng cô tuyệt vời đến nhường nào, rằng anh thật lòng, thật lòng yêu cô, rằng cô gợi cảm như thế nào, chỉ cần cô biết được điều đó và vì sao lại không làm ngay, chỉ để xem chuyện gì sẽ xảy ra, và nếu không có gì xảy ra, thậm chí họ chỉ ngồi nói chuyện thì ít ra cũng tốt hơn là ở một mình đêm nay. Bằng bất cứ giá nào, anh không thể ở một mình…
Khi anh đang cầm điện thoại trong tay thì, tạ ơn Chúa, Biggsy hay Gibbsy gì đó đề nghị tất cả cùng về chỗ anh, chỉ gần đây thôi, và vì thế, họ ra khỏi câu lạc bộ, để cho an toàn, họ cùng nhau đi bộ ngược lại đường Coldharbour Lane.
Đó là một căn hộ rộng rãi nằm trên mái của một quán rượu cũ. Bếp và phòng khách, phòng ngủ và phòng tắm đều được phơi bày ra mà không có một bức tường nào ngăn cách, chỉ có một chỗ duy nhất thể hiện sự riêng tư là một tấm rèm gần như trong suốt được treo quanh nhà vệ sinh kiểu đứng. Trong khi Biggsy dọn dẹp bàn làm việc của mình, những người khác đến nằm thành một đống ngổn ngang trên một chiếc giường bốn trụ thật to được phủ bởi tấm ga làm bằng sợi acrylic tổng hợp màu đen hình da cọp vẻ mỉa mai. Phía trên đầu giường là một chiếc gương khung sắt, và họ nhìn chằm chằm vào đó với những mí mắt nặng trĩu, tự ngưỡng mộ bản thân trong khi đang nằm ườn ra bên dưới, đầu gối đầu, với tay ra tìm kiếm những bàn tay khác, và nghe nhạc. Trẻ tuổi và thông minh, lôi cuốn và thành đạt, hiểu biết và lúc này không còn tỉnh táo, tất cả đều nghĩ rằng trông họ mới tuyệt làm sao và từ giờ trở đi họ sẽ là những người bạn tốt của nhau. Họ sẽ tổ chức những buổi dã ngoại trên Heath, và những ngày Chủ nhật dài lười biếng trong quán rượu, và một lần nữa, Dexter lại cảm thấy hài lòng với chính mình. “Mình nghĩ là cậu rất tuyệt,” mấy người nào đó nói với nhau, nhưng chẳng cần biết đó là ai bởi tất cả bọn họ đều thực sự tuyệt vời. Mọi người đều tuyệt vời.
Nhiều giờ nhanh chóng trôi qua. Lúc này, ai đó đang nói về tình dục, và họ đang đua nhau tiết lộ những bí mật cá nhân mà họ sẽ hối tiếc vào sáng hôm sau. Mọi người đang hôn nhau, còn Tara vẫn đang xoa bóp trên cổ anh, ấn vào phần trên cột sống anh bằng những ngón tay nhỏ thô cứng của cô, nhưng tác dụng của ma túy đã hết, những gì từng được xem là sự xoa bóp thư giãn giờ là một chuỗi những cú thúc, đâm chọc,và khi anh nhìn lên khuôn mặt thiên thần của Tara, nó bỗng trở nên dúm dó và đầy hiểm ác, cái miệng thì quá rộng, cặp mắt quá tròn, giống như một loài động vật có vú không lông. Anh cũng nhận ra là cô ta lớn tuổi hơn anh rất nhiều - lạy Chúa, cô ta hẳn phải ba mươi tám tuổi - và có một ít bột màu trắng dính giữa kẽ những chiếc răng nhỏ của cô ta, trông như vữa, và Dexter không còn chế ngự được nỗi sợ hãi đang bắt đầu khiến anh lạnh hết sống lưng, nỗi khiếp sợ và tủi nhục khiến anh toát ra thứ mồ hôi dinh dính đầy mùi hóa chất. Anh bỗng ngồi dậy, run rẩy và chậm rãi đưa hai tay vuốt mặt như thể đang tìm cách lau sạch thứ gì đó.
Trời sáng dần. Tiếng chim két đang hót trên đường Coldharbour Lane, và anh đã nhận thức được, mạnh mẽ đến mức gần như là một ảo giác, rằng anh hoàn toàn trống rỗng, rỗng như quả trứng Phục sinh. Cô gái xoa bóp Tara đã vặn vai anh một cách đau điếng, tiếng nhạc đã dứt, và ai đó trên giường đang muốn uống trà, mọi người đều muốn uống trà, trà, trà, vì thế Dexter đứng lên và tiến đến một cái tủ lạnh rất to, giống như loại anh đang dùng, kiểu dáng công nghiệp và vẻ dữ tợn trông như những thứ bạn tìm thấy trong phòng thí nghiệm di truyền học. Anh mở cửa tủ lạnh và ngây người nhìn vào bên trong. Một túi rau xà lách đang thối rữa, chiếc túi nhựa căng phồng lên và sắp vỡ tung. Hai mắt anh đảo qua đảo lại trong hốc mắt, nên nhìn cái gì cũng thấy mờ mịt, và khi ổn định trở lại, anh nhìn thấy một chai vodka. Nấp người sau cánh cửa tủ lạnh, anh uống vài ngụm, cảm nhận vị chua của nước táo đang nấn ná ghê tởm ngay đầu lưỡi. Anh nhăn mặt, cố nuốt chất lỏng đó vào bụng, nuốt luôn cả miếng kẹo cao su trong miệng. Ai đó lại đòi uống trà. Anh nhìn thấy một bình sữa, cầm nó lên nhưng không thấy gì.
“Không có sữa!” anh hét lên.
“Có mà,” Gibbsy hay Biggsy hét lại.
“Không, chẳng có gì sất. Tớ sẽ đi mua một ít.” Anh đặt bình sữa còn nguyên trở lại tủ lạnh.
“Sẽ trở lại sau năm phút. Còn ai muốn mua gì không? Thuốc lá? Kẹo cao su?” Không có phản ứng nào từ những người bạn mới này, vì thế anh lặng lẽ bước ra ngoài, sau đó nháo nhào nhảy xuống các bậc thang và đi ra đường, đẩy mạnh cánh cửa như thể để đón lấy chút không khí và rồi bắt đầu chạy thục mạng, không bao giờ gặp lại ai trong số những con người tuyệt vời này một lần nào nữa.
Trên đại lộ Electric, anh tìm thấy một văn phòng taxi nhỏ. Ngày 15 tháng Bảy năm 1993, mặt trời mọc lúc 5 giờ 1 phút, và lúc này, Dexter Mayhew đã rơi xuống chín tầng địa ngục.
Emma Morley ăn uống điều độ. Những ngày này, cô ngủ tám tiếng, sau đó tự thức giấc ngay trước sáu rưỡi sáng và uống một ly nước lọc to, 250ml đầu tiên của chai nước 1,5 lít dùng hằng ngày, cô rót nó từ chiếc bình đựng nước mới toanh và một chiếc ly đồng bộ đang đứng trong luồng nắng mai tinh khôi bên cạnh chiếc giường đôi sạch sẽ và ấm áp của cô. Một chiếc bình đựng nước. Cô sở hữu một chiếc bình đựng nước. Cô khó có thể tin được đó là sự thật.
Cô còn sở hữu một số đồ nội thất nữa. Ở tuổi hai mươi bảy, cô không còn phù hợp để sống như một sinh viên nữa, và hiện cô đã có một chiếc giường, loại giường mây cỡ lớn có khung sắt mà cô mua được từ đợt hàng giảm giá của một cửa hàng được trang trí theo kiểu thuộc địa trên đường Tottenham Court. Chiếc giường mang hiệu “Tahiti” này chiếm gần hết diện tích phòng ngủ của cô trong căn hộ gần đường Earls Court. Chiếc chăn lông vịt phủ xuống chân giường, những tấm ga trải giường được làm bằng cotton Ai Cập mà người bán hàng nói với cô rằng đó là loại cotton tốt nhất cho con người, và tất cả những thứ này là dấu hiệu về một giai đoạn mới của cuộc sống độc lập, trưởng thành và nề nếp. Vào những buổi sáng Chủ nhật, cô cứ nằm ườn một mình trên chiếc giường Tahiti này như thể nó là một chiếc bè thả trôi, lắng nghe Porgy and Bess , Mazzy Star, Tom Waist và album những tổ khúc viôlôngxen của Bach. Cô uống vài tách cà phê, viết ra những quan sát và ý tưởng dành cho những câu chuyện bằng loại bút máy tốt nhất, trên những trang giấy trắng của cuốn sổ tay đắt tiền. Đôi lúc, khi các ý tưởng không được đặc sắc cho lắm, cô tự hỏi liệu có phải niềm đam mê viết lách thật ra chỉ là một biểu hiện sùng bái các thiết bị văn phòng phẩm. Một nhà văn, nhà thơ chân chính với khả năng thiên bẩm, có thể viết ra những ý tưởng ngay trên những mẩu giấy đầu thừa đuôi thẹo, trên mặt sau của những tấm vé xe buýt, trên bức tường xà lim. Emma không thể viết được trên bất kỳ loại giấy nào có định lượng dưới 120gsm.
Nhưng có những lúc, cô thấy mình vui vẻ viết lách hàng giờ, như thể từ ngữ đã ngụ sẵn từ lâu, hài lòng và cô độc trong căn hộ một phòng ngủ của cô. Không phải vì cô không có ai, hay ít ra không thường xuyên có ai đó tới thăm lắm. Cô ra ngoài mỗi tuần bốn lần, và có thể nhiều hơn nữa nếu cô muốn. Cô vẫn giữ liên lạc với những người bạn cũ, và cũng có thêm nhiều bạn mới là các bạn sinh viên của cô ở trường Cao đẳng Sư phạm. Vào cuối tuần, cô tận dụng triệt để những tờ tạp chí chứa đựng thông tin về các sự kiện sắp diễn ra trong vài tuần tới, cô đọc hết mọi thứ trừ phần hộp đêm - thứ có lẽ được viết bằng kiểu chữ Rune để nói về những đám đông sẵn sàng cởi hết quần áo. Cô không tin là mình sẽ nhảy nhót chỉ với một chiếc áo ngực trên người trong một căn phòng nhễ nhại mồ hôi, và đúng là thế thật. Thay vào đó, cô đến các rạp chiếu phim độc lập, phòng triển lãm với bạn bè, hoặc thi thoảng, họ thuê những ngôi nhà ở nông thôn, tổ chức những cuộc đi bộ vui vẻ về nông thôn, và làm ra vẻ như mình sống ở đó. Mọi người nói trông cô xinh hơn, tự tin hơn. Cô đã vứt bỏ những chiếc dây buộc tóc bằng vải nhung, bỏ thuốc lá và thực đơn ăn nhanh. Hiện cô có một chiếc máy lọc cà phê, và lần đầu tiên trong đời, cô đang tính đến việc mua một ít hoa khô.
Đồng hồ trên đài phát thanh đã điểm nhưng cô vẫn cho phép mình nằm dài trên giường lắng nghe phần tin tức. John Smith đang mâu thuẫn với công đoàn, và cô cảm thấy đau lòng vì cô thích John Smith, người có vẻ tử tế, khôn ngoan và có cốt cách của nhà lãnh đạo. Thậm chí cái tên của ông cũng thể hiện một con người của nguyên tắc, và một lần nữa cô tự nhắc mình xem xét lại khả năng gia nhập Đảng Lao động; có lẽ nó sẽ giúp lương tâm cô đỡ cắn rứt khi thẻ thành viên Chiến dịch Giải trừ Vũ khí Hạt nhân của cô đã hết hạn. Không phải là cô không thông cảm với các mục đích của họ, nhưng việc yêu cầu hành động giải trừ quân bị đa phương dường như có chút ngây thơ, giống như việc đòi hỏi lòng tốt của tất cả mọi người trên hành tinh này vậy.
Ở tuổi hai mươi bảy, Emma tự hỏi liệu cô có đang già đi không. Cô từng tự hào rằng mình luôn phản đối việc nhìn thấy hai mặt của một vấn đề, nhưng dần chấp nhận rằng các vấn đề ngày càng trở nên mơ hồ và phức tạp hơn cô nghĩ. Dĩ nhiên là cô không hiểu được hai cụm từ mới mẻ tiếp theo có liên quan đến Hiệp ước Maastricht và cuộc chiến ở Nam Tư. Chẳng hạn cô cần có một quan điểm, hoặc bênh vực, hoặc tẩy chay một điều gì đó sao? Ít ra là với nạn phân biệt chủng tộc, bạn phải biết được mình đứng về phía nào. Lúc này đang có một cuộc chiến xảy ra tại châu Âu và cá nhân cô chẳng thể làm gì để chấm dứt điều đó. Quá bận rộn với việc mua sắm đồ đạc nội thất. Cảm thấy không yên tâm, cô tung chiếc chăn lông vịt mới sang một bên, bước qua khoảng không gian nhỏ giữa thành giường và vách tường, lách người ra phòng lớn và bước vào phòng tắm nhỏ, nơi cô không bao giờ phải chờ đợi ai vì sống một mình. Cô cởi áo thun ra và thả nó vào chiếc rổ mây đựng đồ bẩn - cô đã tha về cả đống đồ đan bằng mây tre kể từ đợt bán hàng giảm giá mùa hè định mệnh trên đường Tottenham Court - đeo chiếc kính cận cũ và đứng trần truồng trước gương, ưỡn ngực ra phía trước. Có thể tồi tệ hơn, cô nghĩ và bước vào đứng dưới vòi sen.
Cô vừa ăn sáng vừa nhìn ra ngoài cửa sổ. Căn hộ của cô nằm trên tầng sáu trong một khu nhà ngói đỏ và bên cạnh là một khu nhà ngói đỏ giống y hệt. Cô không quan tâm đến Earls Court; tồi tàn và tạm bợ, giống như sống trong một căn phòng dự trữ của Luân Đôn. Tiền thuê một căn hộ đơn ở đây cũng đắt như điên, và có lẽ cô phải tìm một nơi nào khác rẻ hơn khi tìm được công việc dạy học đầu tiên, nhưng lúc này, cô thích ở đây, một sự khác biệt lớn giữa Loco Calienta và hiện thực xã hội đầy khắc nghiệt của căn phòng áp mái tại Clapton. Thoát khỏi Tilly Killick sau sáu năm chung sống, cô yêu biết bao cái cảm giác được biết rằng sẽ không còn nhìn thấy những chiếc đồ lót màu xám giấu trong chậu rửa bát và cũng chẳng còn dấu răng trên pho mát.
Bởi không còn hổ thẹn với về cách sống của mình, cô thậm chí còn mời bố mẹ đến thăm nơi cô sống, Jim và Sue chiếm chiếc giường Tahiti trong khi Emma ngủ trên ghế sofa. Trong ba ngày ở đây, họ không ngớt bình luận về sự hỗn tạp của các kiểu tộc người sinh sống ở Luân Đôn, chi phí của một tách cà phê, và mặc dù không thật sự bày tỏ sự đồng ý về cách sống mới này của cô nhưng ít ra mẹ cô đã không còn đề nghị cô về Leeds làm việc cho Cơ quan Cung ứng Khí đốt. “Làm tốt lắm, Emmy,” bố cô thì thầm khi cô tiễn họ lên tàu tại King’s Cross, nhưng làm tốt điều gì chứ? Có lẽ về việc cuối cùng cô đã sống cuộc sống của một người trưởng thành thật sự.
Dĩ nhiên là vẫn không có bạn trai, nhưng cô chẳng bận tâm. Họa hoằn lắm, ví như vào bốn giờ chiều của một ngày Chủ nhật ẩm ướt nọ, cô cảm thấy hoảng sợ và gần như nghẹt thở vì nỗi cô đơn. Một hay hai lần, cô đã nhấc điện thoại lên để kiểm tra xem đường dây có còn hoạt động không. Đôi lúc, cô nghĩ sẽ tốt biết bao nếu bị đánh thức bởi một cuộc điện thoại trong đêm: “hãy lên taxi ngay” hoặc “mình cần gặp cậu, chúng ta cần nói chuyện.” Nhưng vào những thời điểm tốt đẹp nhất, cô cảm thấy mình giống như nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Muriel Spark - độc lập, ham đọc sách, đầu óc nhạy bén, thích yêu đương bí mật. Ở tuổi hai mươi bảy, Emma Morley sở hữu một tấm bằng hạng nhất môn Anh ngữ và Lịch sử, có một chiếc giường mới, một căn hộ hai phòng tại Earles Court, nhiều bạn bè, và một tấm bằng cử nhân giáo dục. Nếu cuộc phỏng vấn hôm nay diễn ra xuôi chèo mát mái, cô sẽ được nhận vào giảng dạy môn tiếng Anh và Kịch, những bộ môn mà cô am hiểu và yêu thích. Cô đang đứng trên ngưỡng cửa trở thành một giáo viên đầy nhiệt huyết và cuối cùng, cuối cùng, có được một trật tự nhất định trong cuộc đời mình.
Ngoài ra cũng có hẹn hò.
Việc hò hẹn của Emma diễn ra đứng đắn theo đúng nghi thức. Cô sẽ ngồi trong một nhà hàng với một người đàn ông và nhìn anh ta ăn uống, trò chuyện. Có người muốn leo lên chiếc giường tahiti của cô, và tối nay cô sẽ quyết định liệu có nên để anh ta làm điều đó hay không. Cô đứng cạnh lò nướng bánh, thái chuối ra thành từng lát, khẩu phần đầu tiên trong số bảy phần hoa quả và rau xanh của ngày hôm nay, và nhìn chăm chú vào tờ lịch. Ngày 15 tháng Bảy năm 1993, một dấu hỏi và một dấu cảm thán. Cuộc hẹn hò chính thức bắt đầu.
Chiếc giường của Dexter là loại nhập khẩu từ Italia, loại giường thấp màu đen trợn được đặt chính giữa căn phòng trống rộng lớn trông như một sân khấu hay một sàn đấu vật, và đôi lúc nó cũng có chức năng đúng như thế. Anh nằm đó không ngủ cho đến 9 giờ 30, khiếp sợ và ghê tởm bản thân kèm theo cảm giác không thỏa mãn về tình dục. Các dây thần kinh của anh đều căng lên như dây đàn và miệng thì có mùi vị gì đó khó chịu, như thể lưỡi anh bị phủ đầy keo xịt tóc. Bỗng nhiên, anh ngồi bật dậy và bước trên tấm sàn gỗ đen sáng bóng để đến gian bếp được trang trí các thiết bị của Thụy Điển. Có một ngăn đá trong chiếc tủ lạnh công nghiệp cỡ lớn của anh, anh tìm thấy một chai vodka, rót một ít ra ly, rồi thêm ngần ấy nước cam vào. Anh tự trấn an mình bằng suy nghĩ rằng, vì anh chưa ngủ nên đây không phải là lần uống đầu tiên trong ngày, mà là lần uống cuối cùng của đêm trước. Hơn nữa, toàn bộ những điều cấm kỵ về việc uống rượu ban ngày là hơi cường điệu quá mức; ở châu Âu mọi người vẫn uống đấy thôi. Tận dụng sự kích thích của men rượu để chống lại trạng thái suy sụp của ma túy; anh tìm cách say rượu để được tỉnh táo - một trạng thái mà khi nghĩ đến bạn sẽ thấy nó thật sự khá dễ hiểu. Với cách lập luận đó, anh rót thêm một ít vodka nữa, mở đĩa nhạc phim Reservoir Dogs và nghênh ngang bước vào nhà tắm.
Nửa giờ sau, anh vẫn còn trong nhà tắm, tự hỏi mình phải làm gì để chấm dứt tình trạng toát mồ hôi này. Anh đã thay áo sơ mi hai lần, tắm bằng nước lạnh, nhưng mồ hôi vẫn đầm đìa ở lưng và trán, nhờn nhờn, dính dính như rượu vodka, thứ có lẽ là lý do khiến anh đổ mồ hôi như thế này. Anh nhìn đồng hồ đeo tay. Đã trễ giờ rồi. Anh quyết định sẽ hạ cửa kính xuống khi lái xe.
Có một gói quà to cỡ viên gạch đặt ngay cửa để anh không quên, được gói cẩn thận trong nhiều lớp giấy màu khác nhau, và anh nhặt nó lên, khóa cửa nhà và bước ra ngoài con đường râm mát, nơi chiếc xe của anh đang đợi sẵn, một chiếc Mazda MRII màu xanh lá có thể bỏ mui. Không có chỗ ngồi ở phía sau, không có giá đỡ trên trần xe, không đủ chỗ cho một chiếc lốp dự phòng chứ đừng nói đến một chiếc xe nôi, đó là một chiếc xe mà chính bản thân nó đã thể hiện được sự trẻ trung, thành đạt, và cuộc sống độc thân của chủ nó. Phía trong ngăn đựng đồ là một hệ thống máy đĩa, một sự kỳ diệu của công nghệ hướng đến tương lai, và anh đã chọn loại năm đĩa (quà tặng từ các công ty thu âm, một bổng lộc khác mà anh có được trong công việc) và đẩy những chiếc đĩa sáng bóng vào hộp như thể đang nạp đạn vào súng lục.
Anh lắng nghe những bài hát của nhóm The Cranberries khi tìm cách vượt qua các con đường rộng đông đúc dân cư của quận St John’s Wood. Đó thật sự không phải là thứ anh yêu thích, nhưng quan trọng là phải duy trì đẳng cấp cao khi vượt qua thị hiếu âm nhạc của người khác. Khu Westway đã không còn kẹt xe trong giờ cao điểm và trước khi album kết thúc, anh đã ở trên đường M40, hướng về phía Tây xuyên qua các khu công nghiệp nhẹ và khu quy hoạch nhà ở của thành phố, nơi anh sống một cuộc sống giàu có và thời thượng. Vùng ngoại ô rộng lớn đã nhường chỗ cho những khu đồn điền trồng các loại cây tùng bách. Jamiroquai đang hát và anh cảm thấy tốt hơn rất, rất nhiều, ngông nghênh như một đứa trẻ trong chiếc xe hơi thể thao nhỏ nhắn của mình,và chỉ còn cảm thấy hơi nôn nao một chút. Anh chỉnh âm thanh to hơn. Anh đã gặp ca sĩ thủ lĩnh của ban nhạc này, đã phỏng vấn anh ta vài lần, và cho rằng anh sẽ không đi xa đến mức gọi anh ta là bạn, nhưng anh biết anh chàng này chơi nhạc đệm rất giỏi và cảm thấy có chút quan hệ thân thiết khi họ hát về tình trạng đáng báo động của trái đất. Đó là một phiên bản mở rộng, mở rộng mênh mông, không gian và thời gian kéo dài như thể nhiều giờ đã trôi qua cho đến khi tầm nhìn của Dexter mờ đi và lảo đảo lần cuối, dư âm còn lại của chất ma túy mà anh đã dùng đêm qua, và anh nghe thấy một tiếng còi xe vừa lúc nhận ra rằng mình đang lái với tốc độ 112 dặm một giờ ngay chính giữa hai làn đường.
Anh chạy chậm lại và tìm cách hướng chiếc xe vào làn đường ở giữa, nhưng nhận ra rằng mình không còn nhớ cách xoay vô lăng, hai cánh tay anh như bị một sức mạnh vô hình nào đó khóa chặt khi cố vặn bánh lái. Đột ngột, tốc độ của xe giảm xuống còn năm mươi tám dặm một giờ, anh vừa đạp phanh vừa đạp chân ga, và thêm một hồi còi đinh tai từ chiếc xe tải to như cái nhà đang lù lù xuất hiện phía sau anh. Qua kính chiếu hậu, anh có thể nhìn thấy khuôn mặt nhăn nhó của gã tài xế, một gã to con có râu quai nón xồm xoàm đang hét vào anh, khuôn mặt gã là ba cái lỗ thủng màu đen, giống như chiếc hộp sọ. Dexter vặn mạnh tay lái một lần nữa mà thậm chí không cần kiểm tra xem có chiếc xe nào trên làn đường giảm tốc không và anh bỗng linh tính chắc chắn rằng mình sắp chết, ngay tại đây và vào lúc này, trong một quả bóng lửa nổ tung khi đang nghe bản remix của Jamiroquai. Nhưng tạ ơn Chúa, làn đường đó không có một chiếc xe nào, và anh nặng nhọc hít thở bằng miệng, một, hai, ba lần, giống như võ sĩ quyền Anh. Anh tắt bụp nhạc và lái xe trong im lặng với tốc độ ổn định sáu mươi tám dặm một giờ cho đến khi ra khỏi làn đường.
Kiệt sức, anh tìm thấy một góc lùi vào để đỗ xe trên đường Oxford, ngồi dựa ra ghế và nhắm mắt lại với hy vọng sẽ ngủ được một lúc, nhưng anh chỉ nhìn thấy ba lỗ thủng màu đen trên khuôn mặt gã tài xế xe tải đang hét vào anh. Bên ngoài mặt trời quá rực rỡ, đường xá quá ồn ào, và hơn nữa còn có vẻ gì đó hèn hạ và xấu xa ở anh thanh niên đầy lo lắng này, đang nằm quằn quại trong một chiếc xe đỗ lại bên đường lúc mười một giờ bốn mươi lăm phút, trong một buổi sáng mùa hè, vì thế anh ngồi thẳng dậy, chửi thề và bắt đầu lái cho đến khi tìm thấy một quán rượu bên đường mà anh biết từ thời niên thiếu. White Swan là chuỗi nhà hàng mở cửa cả ngày phục vụ bữa sáng bao gồm bít tết và khoai tây chiên rẻ không tưởng tượng được. Anh rẽ vào, nhặt gói quà từ chỗ ngồi bên cạnh và bước vào căn phòng rộng lớn quen thuộc có mùi nước đánh bóng gỗ và mùi thuốc lá của đêm hôm trước.
Dexter tựa người vào quầy rượu một cách thân thiện và gọi nửa phần rượu nhẹ và hai phần vodka tăng lực. Anh biết người phục vụ quầy rượu từ những năm tháng đầu của độ tuổi hai mươi vì anh thường đến đây uống cùng bạn bè. “Nhiều năm trước tôi đã hay lui tới đây rồi,” Dexter vui vẻ nói. “Thế sao?” người đàn ông mặt mũi trông dữ tợ, cau có hỏi lại. Nếu người này nhận ra anh thì ông ta đã không nói chuyện kiểu đó, và một tay cầm ly rượu, Dexter bước về phía một chiếc bàn và lặng lẽ ngồi uống với gói quà đặt trước mặt, một gói nhỏ được gói bằng giấy có hình trang trí. Anh nhìn quanh và nghĩ về chặng đường mà mình đã đi trong mười năm qua, và tất cả những gì anh đã đạt được - một người dẫn chương trình truyền hình nổi tiếng, và chưa tới hai mươi chín tuổi.
Đôi khi, anh nghĩ rượu có khả năng chữa bệnh thật thần kỳ bởi chỉ trong vòng mười phút sau, anh đã lại đang vui vẻ ra xe và bắt đầu nghe nhạc. Tiếng nhạc vui nhộn của nhóm The Beloved vang lên, khiến cho quãng đường trở nên thật thú vị và chỉ sau mười phút nữa, anh đã rẽ vào con đường rải sỏi của ngôi nhà bố mẹ anh, một kiến trúc rộng lớn tách biệt được xây dựng vào thập niên 20, phía trước dựng một bộ khung bằng gỗ sồi giả đan chéo để khiến ngôi nhà trông bớt phần hiện đại, bớt “hộp” và cứng cáp hơn so với bản chất vốn có của nó. Một ngôi nhà hạnh phúc, tiện nghi ở Chilterns, Dexter nhìn nó với vẻ khiếp sợ.
Bố anh đã đứng sẵn ở lối cửa ra vào như thể ông đã ở đó từ nhiều năm nay. Ông đang mặc quá nhiều quần áo cho tháng Bảy; một cái đuôi áo sơ mi thòng xuống từ chiếc áo len dài tay, trên tay cầm một tách cà phê. Người đã từng là người khổng lồ trong mắt Dexter giờ đây trông đến lọm khọm và mệt mỏi, khuôn mặt dài của ông xanh xao, hằn lên vô số nếp nhăn kể từ sáu tháng trước khi tình hình sức khỏe của mẹ anh xấu đi. Ông nâng tách cà phê lên ra hiệu chào và trong khoảnh khắc, Dexter nhìn thấy chính mình qua cặp mắt của bố, và cảm thấy hổ thẹn với chiếc áo sơ mi sáng bóng, khoan thai lái chiếc xe thể thao nhỏ này, tiếng ồn đáng ghét mà nó tạo ra khi chiếc xe dừng đột ngột trên sỏi, tiếng nhạc vui vẻ đang phát ra từ dàn máy hát.
Tỉnh táo lại.
Tên ngốc.
Ôm ấp, vuốt ve.
Làm trò hề.
Đã được phân loại, thằng hề nhỏ thích phô trương.
Anh tắt nhạc, tháo chiếc nắp đậy di động ra khỏi bảng công tơ mét, cầm nó trong tay và rồi nhìn chằm chằm vào đó. Bình tĩnh nào, đây là Chilterns, không phải Stockwell. Bố mày sẽ không ăn cắp dàn máy hát đó. Chỉ cần bình tĩnh . Ngay cửa, bố anh lại nâng tách cà phê lên, và Dexter thở hắt ra, nhặt gói quà từ chỗ ngồi bên cạnh, gom hết mọi sức lực để tập trung, và bước ra khỏi xe.
“Đúng là một cỗ máy ngớ ngẩn,” bố anh tặc lưỡi.
“Thì bố cũng đâu có phải lái nó đúng không ạ?” Dexter cảm thấy an ủi khi sự dễ chịu của thói quen xưa lại hiện về, người bố nghiêm nghị và cứng rắn, anh con trai thì vô trách nhiệm và tự phụ.
“Dù thế nào cũng đừng nghĩ là bố sẽ phù hợp với nó. Đó chỉ là đồ chơi dành cho những anh bé thôi. Bố mẹ vừa nghĩ đến con cách đây một lúc.”
“Bố khỏe không?” Dexter hỏi, bỗng cảm thấy tình cảm yêu thương trìu mến dành cho người cha thân yêu trào lên dào dạt, và theo bản năng, anh vòng hai tay ra sau lưng ông, xoa xoa vào đó và rồi, một cách mãnh liệt, hôn vào má ông.
Cả hai đều đứng như trời trồng.
Trong chừng mực nào đó, Dexter đã có một hành động phản tác dụng. Anh đã tạo ra một âm thanh “mmmmoi” trong tai bố anh. Một phần vô thức trong con người anh nghĩ rằng anh đang ở dưới mái vòm của nhà ga với Gibbsy và Tara và Spex. Anh có thể cảm thấy nước bọt ẩm ướt trên môi mình và nhìn thấy sự sửng sốt trên khuôn mặt bố anh khi ông nhìn xuống anh con trai của mình, một cái nhìn kiểu kinh Cựu ước. Con trai hôn bố - quy luật tự nhiên đã bị phá vỡ. Bố anh hít hít - hoặc là vì không thích hoặc là vì ông không muốn ngửi hơi thở của con trai mình, và Dexter không chắc cái nào tệ hơn.
“Mẹ con trong vườn. Bà ấy đã đợi con cả buổi sáng.”
“Mẹ thế nào?” anh hỏi. Có lẽ ông sẽ nói “khá hơn nhiều rồi.”
“Cứ đi rồi khắc biết. Bố sẽ đi đặt ấm nước.”
Lối đi trên hành lang tối và mát do khuất ánh mặt trời. Cassie, chị gái anh, từ ngoài vườn bước vào với một cái khay trên tay, khuôn mặt cô ngời lên năng lượng, sự thông minh và lòng hiếu thảo. Ở tuổi ba mươi tư, cô đã là bà giám đốc nghiêm khắc của một bệnh viện, và vai trò đó rất thích hợp với cô. Nửa cười, nửa giận, cô chạm má mình vào má em trai. “Đứa con hoang tàng đã trở về.”
Đầu óc Dexter không lẩn thẩn đến mức không nhận ra có một sự chỉ trích cay độc trong lời nhận xét đó, nhưng anh cứ lờ đi và liếc nhìn chiếc khay. Một bát ngũ cốc gạo lức trộn với sữa, một cái muỗng bên cạnh, vẫn còn nguyên. “Mẹ thế nào?” anh hỏi. Có lẽ chị ấy sẽ nói, “đỡ hơn nhiều.”
“Cứ đi xem khì khắc biết,” Cassie nói, và anh lách người qua và tự hỏi: sao không ai nói cho anh biết mẹ anh thế nào?
Anh đứng nhìn bà từ bậc cửa. Mẹ anh đang ngồi trong chiếc ghế bành cũ đã được mang ra vườn để có thể ngắm cánh đồng và rừng cây bên ngoài. Từ xa, Oxford trông như một vệt xám mờ mờ. Từ góc nhìn này, khuôn mặt bà bị che khuất bởi chiếc mũ rộng vành và kính râm - những ngày gần đây, ánh sáng thường khiến mắt bà khó chịu - nhưng chỉ cần nhìn vào hai cánh tay mảnh khảnh và cách bàn tay bà đặt uể oải trên thành ghế, anh có thể thấy là bà đã thay đổi rất nhiều trong ba tuần kể từ lần cuối anh gặp bà. Anh bỗng dưng muốn khóc. Anh muốn cuộn mình như một đứa trẻ và cảm nhận vòng tay của bà choàng quanh người mình, và anh cũng muốn chạy khỏi đây nhanh nhất trong khả năng có thể,nhưng làm theo cách nào được, nên thay vào đó, anh nhảy xuống các bậc thềm, sải bước trong trạng thái vui vẻ giả tạo, phong cách của một người dẫn chương trình truyền hình.
“Xin chàoooooo!”
Mẹ anh cười như thể việc làm đó đòi hỏi một nỗ lực lớn lao. Anh gập người xuống dưới vành mũ để hôn bà, làn da hai bên má của bà mát lạnh và căng bóng một cách khác thường. Chiếc khăn trùm đầu được buộc bên dưới mũ để che đi phần tóc đã mất, nhưng anh cố gắng không nhìn vào khuôn mặt bà quá gần khi nhanh chóng đưa tay với chiếc ghế đã han gỉ đặt trong vườn. Một cách ồn ào, anh kéo nó lại gần và đặt song song với chiếc ghế của mẹ, anh để cả hai cùng nhìn ra quang cảnh bên ngoài, nhưng anh có thể cảm nhận được bà đang nhìn mình.
“Con đang đổ mồ hôi,” bà nói.
“À, hôm nay trời nóng thật.” Bà có vẻ không tin. Không đủ thuyết phục. Tập trung nào. Hãy nhớ mày đang nói chuyện với ai.
“Người con ướt đẫm.”
“Do chiếc áo này ấy mà. Toàn sợi nhân tạo.”
Bà với tay qua và dùng mu bàn tay chạm vào chiếc áo. Bà nhăn mũi thể hiện sự không hài lòng. “Của hãng nào?”
“Prada.”
“Đắt tiền.”
“Chỉ có loại tốt nhất,” sau đó để chuyển đề tài, anh lấy gói quà từ vách tường đá. “Quà của mẹ đấy.”
“Thật dễ thương.”
“Không phải của con, của Emma đấy.”
“Nhìn loại giấy gói quà là mẹ đoán được ngay.” Một cách cẩn thận, bà tháo dây ruy băng. “Những món quà của con trông giống như mấy cái túi đựng rác lọ lem.”
“Không đúng...” anh cười, cố gắng làm cho mọi chuyện trở nên thật thoải mái.
“... khi mẹ nhận được chúng.”
Anh thấy khó mà giữ được nụ cười này, nhưng may mắn làm sao, bà đang tập trung vào gói quà khi cẩn thận mở phần giấy gói, bên trong là một chồng sách bìa mềm: Edith Wharton, một vài cuốn của Raymond Chandler, F.Scott Fitzgerald. “Con bé thật tốt. Hãy gửi lời cảm ơn của mẹ đến con bé nhé? Emma Morley đáng yêu.” Bà nhìn vào trang bìa của cuốn sách Fitzgerald. “ Người đẹp và tên đáng ghét . Đó là mẹ và con.”
“Nhưng ai là người đẹp ai là tên đáng ghét chứ?” anh hỏi mà không cần suy nghĩ, nhưng may mắn là bà dường như không nghe thấy. Thay vào đó, bà đang đọc mặt sau của tấm bưu thiếp, một bức ảnh đen trắng làm bằng nghệ thuật cắt dám nhằm cổ động từ năm 1982; “Thatcher Out!” Bà cười lớn. “Thật là một cô gái tốt bụng. Buồn cười quá.” Bà cầm cuốn tiểu thuyết và đo độ dày của nó giữa hai ngón tay. “Có lẽ nó hơi lạc quan. Có lẽ con nên bảo với con bé là lần sau nên chuyển sang thể loại truyện ngắn.”
Dexter mỉm cười và ngoan ngoãn khịt khịt mũi nhưng anh ghét kiểu nói đùa này, kiểu đùa chết chóc. Mục đích của nó là để thể hiện sự can đảm, để nâng đỡ tinh thần, nhưng anh thấy điều đó thật nhàm chán và ngu ngốc. Anh thích những gì đã không thể nói ra thì cũng đừng nên nhắc đến. “Emma thế nào?”
“Rất tốt, con nghĩ thế. Cô ấy giờ đã là một giáo viên được đào tạo chính quy. Hôm nay là ngày phỏng vấn.”
“Vậy là có được một nghề rồi.” Bà quay đầu nhìn anh. “Chẳng phải con đã từng là giáo viên sao? Điều gì đã xảy ra ở đó?”
Anh nhận ra lời ám chỉ bóng gió. “Không phù hợp với con.”
“Không” là tất cả những gì bà nói. Có một sự im lặng và anh cảm thấy mình lại mất kiểm soát một lần nữa. Qua phim ảnh và các chương trình truyền hình, Dexter luôn tin rằng mặt tích cực của đau ốm là nó khiến con người trở nên gần gũi hơn, rằng sẽ có một sự cởi mở, hiểu biết không cần phải cố gắng tìm hiểu giữa mọi người. Nhưng anh và mẹ luôn gần gũi, luôn cởi mở, và sự hiểu biết vốn có của họ đã được thay thế bằng sự cay đắng, oán giận và phẫn nộ về những gì đang xảy ra. Những cuộc gặp mặt đáng lý ra phải đầy yêu thương và an ủi lại biến thành sự cãi vã và buộc tội lẫn nhau. Cách đây tám tiếng, anh đã kể cho những con người hoàn toàn xa lạ về những bí mật thầm kín nhất của mình, nhưng lúc này, anh lại không thể nói chuyện được với mẹ mình. Có điều gì đó không ổn.
“Tuần trước mẹ thấy con trên largin’it ,” bà nói.
“Vậy à?”
Bà im lặng, vì thế anh buộc phải nói thêm, “Mẹ thấy thế nào?”
“Mẹ nghĩ con làm rất tốt. Rất tự nhiên. Trông con rất ăn hình. Như mẹ đã từng nói, mẹ không quan tâm lắm đến chương trình đó.”
“Thì chương trình đó đâu dành cho những người như mẹ, đúng không?”
Bà tỏ vẻ giận về cách nói đó, và xoay đầu đầy kiêu hãnh. “Ý con là gì, những người như mẹ ư?”
Bối rối, anh nói tiếp, “Ý con đó chỉ là một chương trình đêm khuya ngớ ngẩn, thế thôi. Đó là chương trình chiếu rất muộn.”
“Ý con là mẹ không đủ say để thưởng thức nó chứ gì?”
“Không…”
“Mẹ cũng không phải là người cả thẹn, mẹ không ớn những hành động thô bỉ, mẹ chỉ không hiểu được là vì sao lúc nào cũng phải làm mọi người bẽ mặt…”
“Không ai bị bẽ mặt, thật sự là không, đó chỉ là trò đùa…”
“Con có nhiều cuộc thi để tìm ra người bạn gái xấu nhất nước Anh. Con không nghĩ đó là điều đáng bẽ mặt sao?”
“Thật sự là không, không…”
“Yêu cầu những người đàn ông gửi những bức ảnh xấu xí của bạn gái mình…”
“Đó chỉ là trò đùa, điều muốn nói ở đây là những người đó vẫn yêu bạn gái của mình dù cho họ… vốn không hấp dẫn, đó mới là quan trọng, chỉ cho vui thôi!”
“Con cứ mãi nói đó chỉ là trò đùa, con đang cố thuyết phục mẹ, hay thuyết phục chính mình?”
“Chúng ta đừng nói về chuyện đó nữa được không?”
“Và con nghĩ là họ thấy vui với điều đó sao, những cô bạn gái ấy, những cô gái ‘xấu xí’..?”
“Mẹ, con chỉ giới thiệu các ban nhạc, chỉ có thế. Con chỉ hỏi các ngôi sao nhạc pop những video mới hay ho của họ, đó là công việc của con. Đó chỉ là phương tiện để kiếm sống thôi.”
“Nhưng mục đích nào hả Dexter? Bố mẹ nuôi dạy con với mong muốn rằng con có thể làm được bất cứ điều gì con muốn. Mẹ chỉ không nghĩ là con muốn làm công việc này .”
“Mẹ muốn con làm gì?”
“Mẹ không biết; việc gì đó tốt ấy.” Bỗng bà đặt tay trái lên ngực, và ngồi dựa ra ghế.
Một lúc sau, anh nói, “Đó là một công việc tốt. Trong phạm vi của nó.” Bà khịt mũi. “Đó là một chương trình ngớ ngẩn, chỉ là giải trí, và dĩ nhiên là con không thích mọi mặt của nó, nhưng đó là một trải nghiệm, nó sẽ dẫn đến nhiều thứ khác. Và thật sự thì con nghĩ là con làm tốt công việc đó, chắc là vậy. Hơn nữa, con đang hài lòng với chính mình.”
Bà đợi một lúc rồi nói, “Thế thì con phải làm thôi, mẹ nghĩ thế. Con phải làm những gì con thích. Và mẹ biết con sẽ kịp làm nhiều thứ khác, chỉ là…” và bà nắm lấy tay anh, không thể nói hết được suy nghĩ của mình. Rồi bà cười to, thở hổn hển, “Mẹ vẫn không hiểu vì sao con cần phải làm ra vẻ là người thành thị.”
“Đó là tiếng nói đại diện cho công chúng,” anh nói, và bà mỉm cười, một nụ cười rất dịu dàng, nhưng là nụ cười khiến anh hiểu ra được điều gì đó.
“Chúng ta không nên tranh luận,” bà nói.
“Chúng ta không tranh luận, chúng ta đang thảo luận,” anh đáp, mặc dù biết rằng họ đang tranh luận.
Bà đưa tay lên đầu. “Mẹ đang dùng moóc phin. Đôi lúc, mẹ không biết mình đang nói gì.”
“Mẹ chưa nói gì cả. Con chỉ cảm thấy hơi mệt thôi.” Cái nắng nóng đang bốc lên từ các phiến đá lát sân, và anh có thể cảm thấy da mặt và hai cánh tay mình rát bỏng, nóng rực như ma cà rồng. Anh cảm nhận được cơn buồn nôn và toát mồ hôi đang kéo đến. Hãy bình tĩnh, anh tự nhủ. Đó chỉ là một loại hóa chất.
“Thức khuya à?”
“Rất khuya ạ.”
“Tại cái chương trình Largin’it phải không?”
“Một chút thôi ạ.” Anh xoa xoa hai bên thái dương để ám chỉ cơn đau, và nói mà không suy nghĩ, “Chắc là mẹ có ít moóc phin dự phòng chứ?”
Bà thậm chí không buồn nhìn anh. Thời gian trôi qua. Cách đây không lâu, anh đã nhận thấy sự ngu ngốc đang xâm chiếm mình. Việc anh quyết tâm giữ thẳng đầu, hai chân chạm đất bắt đầu thất bại, và anh đã quan sát, một cách đầy khách quan rằng anh bắt đầu trở nên thiếu suy nghĩ, ích kỷ và đưa ra những lời nhận xét ngày càng ngu ngốc. Anh đã cố làm một điều gì đó nhưng lại có cảm giác rằng gần như không thể kiểm soát được, giống như chứng hói đầu bẩm sinh. Sao không từ bỏ việc này và làm một tên ngốc? Đừng quan tâm nữa. Thời gian trôi qua và anh nhận thấy cỏ dại đã bắt đầu mọc đầy mặt sân tennis. Chỗ đó đã bắt đầu xuống cấp.
Cuối cùng, bà nói.
“Giờ thì mẹ nói cho con biết là bố con đang chuẩn bị bữa trưa. Đồ hầm đóng hộp. Báo để con biết. Ít ra thì Cassie nên về kịp giờ ăn tối. Con sẽ ngủ lại đây chứ?”
Anh thầm nghĩ anh có thể ở lại qua đêm. Đây là cơ hội để hàn gắn. “Thật ra là không,” anh nói.
Bà hơi xoay đầu.
“Mẹ có vé đi xem Công viên kỷ Jura tối nay. Đó là buổi ra mắt. Công nương Diana cũng tham dự! Không phải với mẹ, mẹ phải nói thêm như vậy,” và khi anh lên tiếng, giọng mà anh nghe thấy là của một kẻ nào đó mà anh xem thường. “Con không thể bỏ công việc được, nó, đã được chuẩn bị từ rất lâu rồi.” Mắt mẹ anh nheo lại, nhỏ tới mức gần như không thể nhìn thấy được gì, và để xoa dịu, anh vội nói dối. “Con sẽ bảo Emma. Con không đi được nhưng cô ấy thật sự muốn đi.”
“À. Ừ.” Và rồi im lặng.
“Cuộc sống của con thì con lo thôi,” giọng bà đều đều.
Một lần nữa lại im lặng.
“Dexter, mẹ phải xin lỗi con, nhưng mẹ e là buổi sáng đã khiến mẹ mệt rồi. Mẹ cần phải lên lầu nghỉ một lát.”
“Được ạ.”
“Mẹ cần có người giúp.”
Vẻ lo lắng, anh nhìn quanh tìm chị gái, hoặc bố, như thể họ có những khả năng mà anh không có được, nhưng anh chẳng nhìn thấy ai cả. Lúc này, hai tay mẹ anh đang đặt trên thành ghế, cố gắng một cách yếu ớt, và anh nhận ra rằng anh phải làm điều này. Một cách nhẹ nhàng, không chút tin tưởng, anh vòng cánh tay dưới người bà và giúp bà đứng lên. “Mẹ có muốn con…”
“Không, mẹ có thể đến được cửa, mẹ chỉ cần giúp đỡ khi lên cầu thang thôi.”
Họ đi bộ qua sân trong, tay anh chỉ chạm vào phần vải của chiếc đầm mùa hè màu xanh dương rộng thùng thình trông như chiếc áo bệnh viện. Sự chậm chạp của bà khiến anh phát điên lên, như một sự sỉ nhục đối với anh. “Cassie thế nào?” anh hỏi, để giết thời gian.
“Ồ tốt. Mẹ nghĩ chị con thích chỉ đạo mẹ hơi nhiều, nhưng nó rất chu đáo. Ăn cái này, uống cái kia, ngủ bây giờ. Nghiêm khắc nhưng công bằng, đó là chị con. Đó là sự trả thù vì mẹ đã không mua cho nó con ngựa con đó.”
Vậy nếu Cassie giỏi việc này, anh tự hỏi, thì chị ấy đang ở đâu khi người ta cần đến chị ấy? Lúc này họ đã vào trong nhà, đang đứng ở chân cầu thang. Anh chưa từng nhận ra lại có quá nhiều bậc thang đến thế.
“Con phải làm thế nào?...”
“Tốt nhất là con bế mẹ lên. Mẹ không nặng đâu, nhất là trong những ngày này.”
Con không làm được điều này. Con không thể. Con nghĩ là con có thể, nhưng thật ra là không thể. Một phần nào đó trong cơ thể con đã mất đi, và con không thể làm được việc này.
“Có đau chỗ nào không? Ý con là có chỗ nào con nên tránh không?...”
“Đừng lo lắng về điều đó.” Bà cởi chiếc mũ che nắng và chỉnh lại khăn trùm đầu. Anh giữ chặt hơn phần dưới cầu vai bà, các ngón tay anh chạm vào mạng sườn, sau dó khom người xuống, luồn cánh tay xuống dưới chiếc váy để tìm đôi chân bà, nhẹ và mát lạnh, và khi nghĩ rằng bà đã sẵn sàng, anh nâng bà lên và cảm thấy cơ thể bà thả lỏng trong cánh tay anh. Bà hít thở sâu, hơi thở bà thật ngọt ngào và nóng hổi phả lên mặt anh. Hoặc là bà nặng hơn hoặc là anh yếu hơn so với anh nghĩ, và anh làm vai bà đập vào chân cầu thang, sau đó điều chỉnh và nghiêng người khi bắt đầu leo lên các bậc thang. Đầu bà tựa vào vai anh, chiếc khăn trùm đầu tuột ra và bay trước mặt anh. Nó giống như một tình huống trong phim có thể là người chồng bế vợ qua ngưỡng cửa, và một vài nhận xét hóm hỉnh lướt qua đầu anh, nhưng không cái nào khiến cho tình hình dễ dàng hơn. Khi họ đến cầu thang, thay vì nói lời cảm ơn, bà lại nhìn anh và bảo “Người hùng của mẹ,” và cả hai cùng mỉm cười.
Anh đá chân mở cánh cửa vào căn phòng tối, và đặt bà lên giường.
“Con lấy gì cho mẹ nhé?”
“Mẹ ổn mà.”
“Mẹ có phải dùng gì không? Thuốc hay…”
“Không, mẹ ổn.”
“Dry Martini với chút vị chanh?”
“Ồ, được, hãy làm cho mẹ.”
“Mẹ có muốn đắp gì không?”
“Chỉ cần cái chăn đó thôi.”
“Có kéo rèm không ạ?”
“Có. Nhưng đừng đóng cửa sổ.”
“Gặp mẹ sau.”
“Tạm biệt, con yêu.”
“Chào mẹ.”
Anh mỉm cười với bà một cách gượng gạo nhưng lúc này bà đã nằm nghiêng xoay lưng về phía anh, và anh bước ra khỏi phòng, khép nhẹ cánh cửa lại. Một ngày không xa, có lẽ trong năm nay, anh sẽ bước ra khỏi căn phòng này và không bao giờ còn được nhìn thấy bà lần nào nữa, và suy nghĩ đó khó chấp nhận đến mức anh cương quyết gạt bỏ nó ra khỏi đầu, chỉ tập trung vào chính bản thân mình: dư vị khó chịu trong người anh lúc này, sự cùng mệt mỏi, cơn đau giật mạnh hai bên thái dương khi anh sải bước xuống các bậc thang.
Khu nhà bếp rộng, bừa bộn, trống rỗng, vì thế anh bước đến tủ lạnh, bên trong cũng gần như chẳng có gì. Một nhánh cần tây đã héo rũ, một con gà đã được làm sẵn, các lon đồ hộp đã mở nắp và thịt lợn xông khói, tất cả điều này cho thấy công việc bếp núc đều do bố anh đảm trách. Bên trong cửa tủ lạnh là một chai rượu trắng đã khui sẵn. Anh lấy chai rượu và tợp lấy bốn, năm ngụm chất lỏng ngòn ngọt này trước khi nghe tiếng chân bố anh ở đại sảnh. Anh đ