← Quay lại trang sách

Chương 1

Đây cuốn sách này thay cho thể xác ta

Và từ ngữ này thay cho tâm hồn ta.

GRIGOR NAAEKATSI

Thán thư (thế kỷ X)

Phải thật kiên nhẫn trong khi tìm mồi ở những mương rãnh khô cạn và lở lói. Một con cáo đói lần theo dấu chân lằng nhằng, dễ lẫn đến mức chóng mặt của loài chuột nhắt, lúc thì hấp tấp cào bới hang chuột, lúc thì náu mình chờ một con chuột nhỏ đang nép đâu đó nhảy ra chỗ trống, để có thể vồ lấy nó ngay tức khắc. Từ xa, con cáo chậm rãi và kiên nhẫn tiến lại gần tuyến đường sắt, về phía dải đất thẫm màu nổi lên cao cao, thẳng tắp giữa thảo nguyên.

Bãi đất ấy vừa quyến rũ, vừa đe dọa con cáo nhỏ. Trên đó, những đoàn tàu sầm sầm lao đi, khi về hướng này, khi về hướng kia, để lại phía sau bụi xỉ và mùi khói khét lẹt bị gió tạt là là trên mặt đất. Cả khu vực lân cận rung chuyển nặng nề mỗi khi có chuyến tàu lao qua.

Gần tối, con cáo nằm xuống cạnh cột điện thoại, dưới đáy khe, trong một bụi cây chút chít khô và dày. Nó cuộn mình thành một khối màu hung hung cạnh những thân cây chút chít màu đỏ sẫm ken sát nhau, và kiên nhẫn chờ đêm xuống. Hai tai nó dỏng lên lắng nghe tiếng gió rì rì thổi nhè nhẹ qua lớp cỏ chết khô cứng queo, dãy cột điện thoại cũng rên rỉ tẻ nhạt. Song con cáo không sợ tiếng rên ấy, vì dãy cột chỉ đứng cố định một chỗ, không hề truy đuổi nó.

Nhưng tiếng sầm sập của những đoàn tàu mỗi lần lao qua đều làm cho nó run lên, căng thẳng và thu mình lại gọn hơn nữa. Tấm thân nhỏ nhoi và hai dãy xương sườn yếu ớt của nó cảm nhận cái sức mạnh ghê gớm, tưởng chừng long trời lở đất kia, song nó vẫn cố nén sợ hãi và ghê tởm các mùi lạ, để nằm dưới lòng rãnh chờ khi đêm xuống, con đường sẽ trở lại yên tĩnh hơn.

Họa hoằn lắm, nó mới mò đến kiếm ăn ở đây, chỉ trong những trường hợp hoàn toàn đói mồi…

Khi không có đoàn tàu nào chạy qua, thảo nguyên đột nhiên trở nên im ắng như sau vụ đất lở, và những lúc im lặng tuyệt đối ấy, con cáo nhỏ lại nắm bắt trong không khí một thứ âm thanh cao tần khó hiểu và đáng ngờ nào đó thoang thoảng phía trên thảo nguyên đang chập choạng tối, một thứ âm thanh chẳng của giống vật nào cả. Có thể đó là trò chơi của các dòng quyển lưu, mà cũng có thể là dấu hiệu sắp thay đổi thời tiết. Bằng bản năng, con cáo nhỏ cảm nhận điều ấy và nó cay đắng nằm bẹp dí tại chỗ. Nó muốn tru lên thành tiếng, muốn rên ư ử vì lờ mờ linh cảm một tai họa chung nào đó. Nhưng cái đói vẫn lấn át ngay cả dấu hiệu cảnh báo ấy của tự nhiên.

Vừa liếm láp các đệm thịt ở gót chân đã hơi chai đi vì chạy nhiều, con cáo vừa khẽ rên ư ử.

Trước đây, khi sắp chuyển sang thu, trời cứ tối là lạnh giá. Đêm thì rét, đất phủ một lớp sương trắng như muối và dễ tan. Vậy là sắp bước vào cái mùa buồn tẻ đối với loài thú sống ở thảo nguyên. Những con mồi vốn đã hiếm hoi ở vùng này vào mùa hè lập tức biến mất, con thì chạy tới miền ấm áp, con thì chui vào hang, con thì tới vùng cát tránh mùa đông. Bây giờ thảng hoặc mới gặp một chú cáo lủi thủi kiếm mồi trên thảo nguyên, tựa hồ cả loài cáo đã tới ngày tuyệt giống. Bầy cáo con năm trước đã lớn và tỏa đi khắp phía, nhưng chưa đến mùa đông là thời kỳ bầy cáo từ khắp nơi tụ về một chỗ, làm cái việc duy trì nòi giống, những con đực cắn xé nhau để giành con cái với sức mạnh mà thiên nhiên phú cho chúng…

Màn đêm vừa buông xuống, con cáo liền rời khỏi rãnh. Nó dỏng tai nghe, đoạn mon men tiến lại nền đường xe lửa và vọt qua vọt lại hai bên mép đường không gây một tiếng động. Ở đây, nó tìm kiếm những thức ăn thừa mà hành khách quăng xuống qua cửa sổ toa tàu. Nó phải chạy khá lâu dọc hai bên đường tàu, hít ngửi đủ thứ đồ vật có mùi khó chịu, cho đến khi vớ được một món gì tàm tạm. Suốt dọc đường tàu, rải rác các mẩu giấy và mảnh báo bị vò nhàu, các loại vỏ chai vỡ, các mẩu thuốc lá, các vỏ đồ hộp méo mó và đủ thứ rác rưởi khác. Khó ngửi nhất là cái mùi phả ra từ miệng những chai bia vỡ, tưởng ngất đi được. Sau hai lần choáng váng cả đầu óc, con cáo không dám hít ngửi cái thứ không khí nồng nặc mùi rượu nữa. Nó xì mũi, nhảy tránh ra chỗ khác.

Vậy mà tai ác thay, nó vẫn chưa gặp được cái nó cần, sau bao nhiêu công phu chờ đợi và nén sự sợ hãi trong lòng. Song với hy vọng may ra kiếm được thứ gì ăn đỡ đói, nó vẫn kiên nhẫn chạy dọc đường tàu và thỉnh thoảng băng ngang từ bên này sang bên kia.

Nhưng đột nhiên đang chạy nó sững lại, hơi giơ một chân trước lên như bị bất ngờ. Dưới ánh mờ của vầng trăng nhàn nhạt ở trên cao, con cáo đứng giữa hai đường ray như một bóng ma câm lặng. Tiếng rì rầm xa xa khiến nó cảnh giác vẫn chưa mất đi, hiện thời nghe còn quá xa. Con cáo cong đuôi, lưỡng lự đôi chân, chuẩn bị rời khỏi đường tàu, nhưng nó bỗng dưng vội vã sục sạo vệ đường. Nó linh cảm sắp được một món, mặc dù tiếng sắt thép va chạm đáng sợ và tiếng đập xình xịch của hàng trăm bánh xe từ xa cứ mỗi lúc một gần thêm. Con cáo chỉ do dự một giây nữa, rồi nó cuống quýt vọt đi, loạng choạng như một cánh bướm. Vừa lúc ấy, từ khúc đường quanh, những ánh đèn xa và gần của đoàn tàu, những tia đèn pha cực mạnh chợt bừng sáng, rọi trắng lóa toàn bộ địa phận phía trước, lột trần không chút thương tiếc cái vẻ cằn cỗi, đói khát của thảo nguyên. Rồi đoàn tàu sầm sầm lao trên đường ray, không khí đầy mùi khói bụi khét lẹt, gió thổi ào ào.

Con cáo cắm cổ chạy thoái lui, chốc chốc ngoảnh lại và dán mình xuống đất vì sợ hãi. Con quái vật mang ánh đèn di động kia đã lao qua, nhưng tiếng sắt thép loảng xoảng và tiếng bánh xe xình xịch phải một hồi lâu mới ngớt. Con cáo lại co cẳng, vắt chân lên cổ mà chạy…

Sau đó nó dừng nghỉ để thở và nó lại muốn quay về chỗ đường tàu, nơi có thể kiếm được chút gì đỡ đói. Nhưng phía trước lại thấy thấp thoáng ánh đèn trên đường tàu, tiếp đến lại một chuyến tàu hàng dài lê thê, do hai chiếc đầu máy cùng kéo.

Con cáo bèn quyết định vòng tránh khu vực này, để rồi mò ra đường tàu ở đoạn nào không có các chuyến tàu chạy qua…

Những chuyến tàu ở vùng này chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông…

Trải rộng hai bên đường tàu ở vùng này là những hoang mạc mênh mông - miền Sarozek và các thảo nguyên úa vàng thuộc miền Đất Giữa.

Ở vùng này, mọi khoảng cách bất kỳ đều được đem so với con đường sắt, như so với kinh tuyến Greenwich.

Những chuyến tàu vẫn chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông…

Nửa đêm khuya khoắt, có một người kiên trì lặn lội tìm đến gặp Edigej ở chỗ chòi bẻ ghi.

Đầu tiên, người ấy đi ngay trên đường tà-vẹt. Sau đó, khi xuất hiện đoàn tàu hàng chạy ngược lại đang lao xuống dốc, người ấy né xuống vệ đường, vừa đi vừa dùng hai tay che gió và bụi thổi thốc ra từ dưới gầm tàu như một cơn lốc. (Đây là một đoàn tàu đặc biệt, luôn luôn bật đèn xanh trên đường chạy. Khi qua đây, nó sẽ rẽ sang một nhánh riêng vào vùng cấm của khu vực Sarozek. Tại đó, có đơn vị phục vụ giao thông riêng dẫn dắt đoàn tàu tới sân bay vũ trụ. Nói tóm lại, là vì thế mà cả đoàn tàu được phủ vải bạt và có bộ đội bảo vệ trên mỗi sàn toa).

Edigej đoán ngay rằng đó là vợ bác đang vội vã đến gặp bác, và sự vội vã ấy hẳn phải có lý do nghiêm trọng. Nhưng vì nhiệm vụ công tác, bác không được quyền rời vị trí bẻ ghi, khi chuyến tàu cuối cùng có người phụ trách đứng ở cửa toa mở ngỏ chưa chạy qua. Bác và người ấy phải dùng đèn xách tay đánh tín hiệu cho nhau, rằng mọi chuyện trên đường đều ổn thoả; và chỉ khi đó, Edigej - tai còn bị ù vì tiếng ầm ầm vừa rồi - mới quay sang hỏi vợ:

- Mẹ nó đến có việc gì?

Người vợ lo lắng nhìn chồng và mấp máy môi. Edigej không nghe rõ, nhưng bác hiểu - ấy là bác nghĩ như vậy.

- Mẹ nó hãy vào đây tránh gió đã - bác kéo vợ vào trong chòi.

Nhưng trước khi nghe rõ từ miệng vợ điều chính bác đã đoán biết, thì lúc này, không hiểu sao bác lại sửng sốt về chuyện hoàn toàn khác. Tuy từ trước bác cũng đã nhận ra dấu hiệu của tuổi tác, nhưng lần này, thấy vợ thở hổn hà hổn hển do phải đi vội, tiếng thở cứ khò khè trong lồng ngực và hai bả vai gầy gò lên theo mỗi nhịp thở, bác bỗng có cảm giác ấm ức thay cho vợ. Ánh điện sáng rực trong chiếc chòi bẻ ghi nhỏ bé, sơn màu trắng tuyền, chợt soi rõ mồn một những nếp nhăn mà bác chưa hề nhìn thấy trên hai gò má đã bắt đầu sạm của Ukubala (trước kia Ukubala là một cô gái chắc nịch, da hơi ngăm pha màu lúa tiểu mạch, có đôi mắt đen sáng long lanh), rồi cả cái miệng khuyết mấy chiếc răng kia một lần nữa chứng tỏ rằng dù một phụ nữ đã hết thời xuân sắc cũng hoàn toàn không nên để khuyết răng như vậy (lẽ ra từ lâu, đã phải đưa vợ đi lắp những chiếc răng kim loại. Bây giờ hết thảy mọi người, từ già chí trẻ, đều lắp răng giả như thế cả). Thêm vào đó là những món tóc bạc trắng từ dưới vành khăn xoã xuống mặt, khiến trái tim bác nhói đau.

“Ôi mình ơi, mình già mất rồi” - Edigej ngầm thương vợ với cảm giác gờn gợn như chính bác có lỗi một phần. Bởi vậy, bác càng nặng lòng biết ơn vợ về mọi điều, về tất cả những gì hai vợ chồng từng trải qua sau nhiều năm chung sống. Và đặc biệt về việc vợ bác, giữa đêm hôm khuya khoắt, đã chạy dọc đường tàu tới điểm xa nhất của cái ga xép này để báo cho chồng biết tin Kazangap mất. Bởi lẽ, Ukubala biết rõ tin này rất hệ trọng đối với Edigej. Lão Kazangap bất hạnh - một ông già cô đơn - vừa qua đời trong ngôi nhà đắp bằng đất trống trải. Ukubala hiểu rằng trên đời này chỉ có một mình Edigej xúc động lo lắng đến cái chết của ông già Kazangap đã bị mọi người bỏ rơi, tuy rằng chồng bà chẳng phải họ hàng thân thích gì với người quá cố.

- Mẹ nó hãy ngồi nghỉ một chút đã - Edigej nói, khi hai người đã vào trong chòi.

- Ông cũng ngồi nghỉ đi - Ukubala bảo chồng.

Hai người ngồi xuống:

- Có chuyện gì vậy?

- Bác Kazangap chết rồi.

- Hồi nào?

- Vừa rồi, tôi chạy sang nhà bác ấy xem bác có cần giúp cái gì không. Tôi bước vào nhà, đèn vẫn sáng, và bác ấy vẫn nằm nghiêng trên giường, riêng chòm râu không hiểu sao lại cong ngược lên. Tôi lại gần và gọi: bác Kazangap, bác Kazangap ơi, bác có muốn uống trà nóng để tôi pha cho nhé! Nhưng bác ấy đã đi rồi - giọng bà nghẹn ngào, nước mắt lăn xuống hai gò má gầy hơi ửng đỏ vì lạnh, và bác nấc lên khe khẽ. - Một con người tốt biết chừng nào, thế mà lúc chết hóa ra chả có ai vuốt mắt cho - Ukubala vừa khóc vừa nói. - Đâu ngờ một người như thế phải chết như một con… - bà định bảo như một con chó hoang, nhưng bà ngừng lại, khỏi cần nói thêm cũng đã rõ rồi.

Edigej-Bão Tuyết, như mọi người vùng này vẫn gọi, ngồi nghe vợ nói, vẻ mặt đăm đăm, hai bàn tay gân guốc như rễ cây nặng nề đặt trên đầu gối. Chiếc mũ lưỡi trai của công nhân đường sắt đã sờn và thấm dầu mỡ che ánh đèn rọi vào mắt bác, bác đã phục vụ ở cái ga xép Boranly-Bão Tuyết này lâu lắm, hồi mới từ mặt trận trở về. Giờ đây bác đang nghĩ gì?

- Mình phải làm gì đây? - Ukubala hỏi.

Edigej ngẩng đầu, nhìn vợ với nụ cười chua chát.

- Còn làm sao nữa! Ta sẽ mai táng bác ấy! - Bác nhổm dậy như đã quyết định dứt khoát. - Thế này nhé, mẹ nó hãy quay về nhà gấp. Và nghe tôi dặn này…

- Tôi nghe ông đây.

- Hãy đánh thức Ospan dậy. Đừng bảo trưởng ga nói, điều đó không quan trọng. Trước cái chết, tất cả đều như nhau thôi. Mẹ nó hãy bảo cậu ta rằng ông lão Kazangap đã chết, ông lão đã làm việc bốn mươi năm liên tục ở nơi này. Có lẽ khi Kazangap bắt đầu ở đây thì Ospan còn chưa ra đời, và hồi ấy dù có thuê tiền cũng chẳng ai chịu mang một con chó tới đây nuôi. Trong thời gian Kazangap làm việc, số đoàn tàu chạy qua còn nhiều hơn cả số sợi tóc trên đầu… Mẹ nó cứ nói như thế, để cậu ta suy nghĩ. Và nghe tôi dặn này…

- Tôi nghe ông đây.

- Mẹ nó hãy đánh thức mọi người dậy, hãy gõ tất cả các cửa sổ. Nào đông đúc gì cho cam, tổng cộng chỉ có tám nhà, đếm được trên đầu ngón tay… Hãy gọi tất cả dậy, đêm nay không ai được ngủ, khi có một người như thế qua đời. Hãy gọi tất cả dậy.

- Nhỡ họ tức giận trách móc mình thì sao?

- Việc của ta là báo tin cho mọi người biết, còn ai muốn chửi bới, trách móc gì mặc kệ họ. Cứ bảo là tôi ra lệnh đánh thức, phải có lương tâm chứ! Hượm đã!

- Còn việc gì nữa?

- Trước hết mẹ nó chạy tới phòng trực ga. Hôm nay Shajmerđen ngồi điều vận, hãy báo cho anh ta biết và bảo anh ta thử nghĩ xem nên làm gì. May ra có thể tìm được người thay tôi lần này. Nếu tìm được, báo cho tôi biết. Mẹ nó hiểu chưa, cứ bảo anh ta thế nhé!

- Tôi sẽ nói với anh ta! - Ukubala đáp, rồi như chợt nhớ ra điều chủ yếu nhất đã quên biến đi mất, bà nhắc: - Thế còn đám con cái của bác Kazangap? Phải điện ngay cho chúng nó biết trước tiên chứ, đằng này lại… Bố chết kia mà..

Edigej cau mày khó chịu khi nghe câu nói ấy, bác chẳng buồn đáp.

- Con cái dù có thế nào thì vẫn là con cái - Ukubala nói tiếp, giọng như phân trần, vì biết rằng Edigej không thích nhắc chuyện ấy.

- Tôi biết chứ - bác phẩy tay. - Đâu phải tôi không hiểu gì! Đúng thôi, không thể vắng mặt chúng được; tuy rằng nếu để tôi quyết, thì chả đời nào tôi cho lũ đó lại gần!

- Ông ơi, đó không phải là việc của ta. Hãy để chúng nó về và tự chôn cất bố chúng. Kẻo sau lại lời ra tiếng vào đủ chuyện…

- Làm như tôi ngăn cản không bằng! Thì cứ để chúng nó đến.

- Nhỡ con trai bác ấy trên thành phố không về kịp?

- Kịp thôi, nếu nó muốn. Hôm kia lên ga chính, tôi đã đánh điện cho nó, báo tin cha nó ốm nặng, khó qua khỏi. Nói thế là đủ! Nó vẫn tự coi mình là đứa thông minh, nó phải hiểu chứ…

- Nếu vậy thì ổn rồi - bà vợ vừa lòng với lý lẽ của chồng và như vẫn đang nghĩ đến điều khiến bà lo ngại, bà nói tiếp: - Giá nó đem cả vợ về thì tốt, dầu sao cũng là bố chồng qua đời, chứ đâu phải người dưng…

- Việc đó thì kệ vợ chồng nó quyết định. Khỏi cần gợi ý, chúng nó đâu còn là trẻ con.

- Đương nhiên, đương nhiên rồi - bà Ukubala đành chấp nhận, dù vẫn còn nghi ngại.

Hai người cùng im lặng.

- Thôi, mẹ nó đừng chần chừ nữa, đi đi.

Nhưng bà vợ lại còn điều muốn nói:

- Còn con gái bác ấy, con bé Ajzada khốn khổ, sống với thằng chồng nghiện ngập và lũ con ở trên ga chính, nó cũng phải về làm tang bố chứ?

Edigej bất giác mỉm cười, vỗ vai vợ:

- Bây giờ mẹ nó bắt đầu lo hộ hết thảy mọi người. Từ đây đến chỗ Ajzada chẳng bao xa, sáng mai sẽ cho người lên báo tin. Tất nhiên nó sẽ về kịp. Mẹ nó nên hiểu rằng cả con Ajzada lẫn thằng Shabitzhan, nhất là cái thằng con bất hiếu ấy, chẳng làm được trò gì đâu. Rồi mẹ nó xem, chúng nó sẽ về thôi, né tránh sao được, nhưng chúng cũng chỉ đứng nhìn như khách lạ, còn làm ma cho bác Kazangap vẫn là việc của chúng ta, vậy đó… Thôi, mẹ nó hãy đi làm những gì tôi đã dặn.

Ukubala đã bước đi, song còn chần chừ dừng lại, rồi mới bước tiếp. Lúc ấy Edigej gọi với theo:

- Nhớ đến chỗ phòng trực gặp Shajmerđen trước đã, để anh ta cử người đến thay tôi, sau đó tôi sẽ làm bù. Ai lại để người qua cố nằm một mình trơ trọi trong căn nhà trống… Mẹ nó cứ bảo thế nhé…

Và bà vợ gật đầu, bước vội. Lúc ấy trên bảng điều khiển, đèn tín hiệu màu đỏ, nhấp nháy, kêu è è - một đoàn tàu mới đang chạy về ga Boranly-Bão Tuyết. Theo lệnh của trực ga, phải dồn nó vào tuyến đường dự phòng, để thông đường cho một đoàn tàu chạy ngược chiều cũng đang sắp vào ga, một sự dồn tàu thông thường. Trong khi các đoàn tàu chạy qua theo đường của chúng, Edigej thỉnh thoảng lại ngó về phía Ukubala đang đi xa dần bên vệ đường như thể bác còn quên nói điều gì với vợ. Dĩ nhiên còn có điều cần nói, trước khi mai táng còn thiếu gì việc phải lo, không thể nhớ ngay tất cả, nhưng bác nhìn theo vợ chẳng phải vì lý do ấy. Đơn giản là vì chính lúc này bác mới để ý thấy vợ bác già đi, lưng còng xuống rõ rệt trong màn khói màu vàng của ánh đèn đường.

Bác nghĩ: Vậy là cái già đã ngồi chễm chệ trên vai. Thành ông lão bà lão mất rồi! Và tuy rằng trời phú cho bác sức khỏe tốt, bác còn dẻo dai lắm, nhưng dầu sao cũng đã bước sang tuổi sáu mươi mốt rồi. “Độ hai ba năm nữa người ta sẽ mời mình về hưu thôi” - Edigej tự nhủ không hề có ý diễu cợt. Song bác biết rằng bác chưa về hưu sớm như vậy, cũng không dễ dàng tìm được người thay chân bác ở vùng này. Bác vừa làm thợ bẻ ghi, vừa làm công nhân sửa chữa, bẻ ghi thì thỉnh thoảng thôi, khi nào có ai bệnh hoặc nghỉ phép. Mấy ai muốn đến vùng đất hẻo lánh, xa xôi và khô cằn này để nhận thêm vài đồng lương? Cứ thử tìm ra một người thợ như vậy trong số thanh niên bây giờ mà xem.

Để sống ở các ga thuộc miền Sakozek, phải có tinh thần, nếu không sẽ gục ngã. Thảo nguyên mênh mông, con người thì bé bỏng. Thảo nguyên hờ hững, anh khổ sở hay vui sướng, nó cũng mặc kệ anh; anh hãy tiếp nhận nó như nó đang có. Trong khi đó con người lại quan tâm đến mọi thứ trên đời; những gì xảy ra, xảy ra như thế nào và họ buồn bã, khổ sở cảm thấy rằng, giá ở một nơi khác, bên cạnh những người khác, có lẽ mình sẽ sung sướng hơn, còn ở đây chỉ có sự trớ trêu của số phận… Và vì lẽ đó, người ấy đánh mất bản thân mình trước thảo nguyên khắc nghiệt và vĩ đại; người ấy mất hết tinh thần, như cái ắc quy trong chiếc mô tô ba bánh của Shajmerđen mất điện. Shajmerđen cứ khư khư giữ gìn cái xe, anh ta chẳng đi và cũng không cho ai mượn. Vậy là chiếc xe cứ đứng chết dí một chỗ, lúc cần thì không nổ được máy, chẳng chạy được vài bước. Con người ở miền Sarozek cũng thế: nếu không tha thiết với công việc, không bám rễ vào thảo nguyên thì không sống nổi, và khó lòng ở yên một chỗ. Những hành khách từ trên các toa tàu ngó xuống, phải giơ hai tay ôm đầu: - Trời ơi, sao người ta có thể sinh sống ở đây được nhỉ? Bốn phía chỉ thấy thảo nguyên và lạc đà! Vậy mà người ta vẫn cứ sống, nếu ai có đủ kiên nhẫn. Ba năm, nhiều lắm chỉ bốn năm, rồi cũng đến bỏ đi nơi khác…

Ở ga Boranly-Bão Tuyết chỉ có hai người bám rễ suốt đời là Kazangap và bác - Edigej-Bão Tuyết. Bao nhiêu vị khác đến rồi đi! Về phần bác chưa dám nói, chứ ông già Kazangap thì đã làm việc ở đây bốn mươi năm, không phải vì ông già ấy kém cỏi so với những vị khác. Dù có đem đổi Kazangap lấy mười người, Edigej cũng chẳng chịu… Giờ thì Kazangap không còn nữa, ông già chết rồi….

Các chuyến tàu vẫn chạy, chuyến sang phía đông, chuyến về phía tây. Đường tàu ở Boranly-Bão Tuyết có nhiều lúc vắng lặng. Và mọi vật xung quanh lập tức hiện ra rõ rệt - những ngôi sao trên bầu trời đêm đêm hình như nhấp nháy sáng hơn, và gió như thổi mạnh hơn bên vệ đường, trên lớp đá sỏi trải giữa hai thanh ray đang khẽ ngân nga.

Edigej không bước vào trong chòi. Bác đứng tựa vào cây cột, suy nghĩ. Đằng xa trước mặt, bên kia đường sắt, là hình bóng mờ mờ của bầy lạc đà đang nhai cỏ trên cánh đồng. Chúng đứng lặng dưới trăng, chờ đêm trôi qua. Và trong số đó, Edigej nhận rõ con lạc đà hai bướu, đầu to của bác; con lạc đà thuộc loại khỏe nhất, đi nhanh nhất miền Sarozek này và nó giống chủ của mình, nó cũng được gọi là Karanar-Bão Tuyết. Edigej kiêu hãnh vì Karanar. Nó là một con vật có sức khỏe hiếm thấy, tuy điều khiển nó không đơn giản, bởi vì Karanar là con đực mà hồi trước Edigej lại không thiến.

Edigej tự nhủ là sáng mai cần lùa con Karanar về nhà sớm để thắng yên. Bác sẽ cùng nó đi đưa ma, đầu óc bác còn lo nghĩ nhiều chuyện khác nhau….

Ở khu ga, mọi người vẫn đang ngủ yên. Đầu ga đằng kia, có mấy gian nhà nhỏ là nơi làm việc, thêm sáu ngôi nhà giống nhau lợp phibro xi măng do ngành đường sắt xây dựng, với ngôi nhà của Edigej, do chính bác dựng nên. Và cái nhà bằng đất của ông lão Kazangap quá cố, rồi các kiểu bếp lò làm ngay ngoài sân, các hàng rào bằng sậy che gió cho đàn gia súc, cùng nhiều thứ lặt vặt khác. Giữa khu vực ấy có một cái cối xay gió vạn năng, vừa làm quay cái bơm điện và khi cần có thể bơm nước bằng tay, xuất hiện ở đây được mấy năm nay. Đó là toàn bộ khu ga Boranly-Bão Tuyết.

Khu ga nằm ven tuyến đường sắt vĩ đại, giữa thảo nguyên Sarozek mênh mông. Một khâu nối nhỏ bé trong hệ thống chằng chịt như mạch máu các ga chính ga phụ, các đầu mối giao thông, các đô thị… Toàn bộ khu ga đứng chơ vơ, hứng mọi thứ gió trên đời, nhất là gió mùa đông, khi những trận bão tuyết miền Sarozek thổi lồng lộn, vun tuyết ngập đến cửa sổ các ngôi nhà và dồn thành đụn lớn trên đường tàu… Bởi thế, ga xép này mang tên Boranly-Bão Tuyết, và tấm biển treo ở cửa ga được viết bằng hai thứ tiếng: Boranly - tiếng Kazak và Bão Tuyết - tiếng Nga…

Edigej còn nhớ, hồi chưa có các loại máy cào tuyết hoạt động, với những thiết bị bắn tuyết văng tung toé, với những lưỡi dao gạt tuyết sang hai bên…, khi phải xử lý các đụn tuyết trên đường tàu, có thể nói, bác và Kazangap từng phải đánh vật một mất một còn với chúng. Tưởng như việc đó mới gần đây thôi, năm năm mươi, năm năm mốt, mùa đông rét mới khiếp chứ. Đâu chỉ ngoài mặt trận mới sử dụng sinh mệnh cho những việc làm một lần, như lao lên tấn công hay một mình ném lựu đạn vào gầm xe tăng!… Ở đây, những việc như thế xảy ra luôn. Tuy không ai giết anh, nhưng anh tự giết mình. Đã bao nhiêu đống tuyết phải dọn bằng tay, cào bằng mê, hoặc tống vào bao tải vác lên trên đồi; chẳng hạn ở cây số thứ bảy, nơi đường tàu xuyên qua một quả đồi bị xẻ ngang. Và mỗi lần như thế lại tưởng chừng đó là trận sống mái cuối cùng với bão tuyết, đành phải nhắm mắt nộp mạng cho thần chết, miễn sao khỏi phải nghe tiếng còi tàu giục giã, đòi thông đường giữa thảo nguyên!

Nhưng hồi ấy những đống tuyết rồi cũng tan, các tàu lại lao qua, năm tháng lại trôi đi… Ngày nay chẳng mấy ai nghĩ đến điều đó, chuyện quá khứ mà… Những tay cán bộ bảo đảm giao thông ngày nay cưỡi xe đến đây, rồi những đội kiểm tra-sữa chữa ồn ào. Tất cả bọn họ không tin, không hiểu, không thể tưởng tượng rằng một nhúm người chỉ có xẻng thôi lại đủ sức dọn tuyết thông đường giữa thảo nguyên Sarozek! Thần kỳ! Có vị còn cười nhạo: Tội gì chuốc lấy những cực hình ấy! Tại sao lại tự chôn mình như thế! Chúng tôi ấy à, chúng tôi mặc xác! Sao các anh không vứt mẹ nó đấy, sao các anh không tìm nơi khác, đến một công trường lớn, ít ra cũng có những điều kiện tối thiểu mà làm việc! Làm bao nhiêu công sẽ được trả bấy nhiêu lương. Có việc gấp rút thì hò nhau làm ngoài giờ… “Các ông già lẩm cẩm ơi, các ông ngu dại thì chết cũng đáng đời!… ”

Khi gặp những vị ‘khôn ngoan’ kiểu đó, Kazangap không thèm để ý đến họ, dường như điều ấy chẳng can hệ gì tới mình. Bác chỉ cười khẩy, tựa hồ tự thầm biết những gì lớn lao mà bọn kia không thể hiểu nổi. Riêng Edigej không nhịn được, lắm lúc nóng mặt, cãi nhau những trận ra trò với họ, song chỉ chuốc thêm bực mình.

Edigej và Kazangap thường trò chuyện với nhau về cái mà đám thợ kiểm tra-sửa chữa ngày nay vẫn chế nhạo, mỗi khi họ đến đây trên những toa xe chuyên dùng. Hai bác còn nói nhiều chuyện khác vào những năm mà bọn thợ khôn ngoan kia hẳn mới là lũ trẻ ở truồng. Thời ấy, hai bác còn phải vắt óc lo đến sinh hoạt hàng ngày nữa chứ. Từ bấy đến nay đã lâu quá rồi, từ năm bốn mươi lăm kia, nhất là sau khi ông già Kazangap về hưu, và cuộc sống của bác ấy không xuôi chèo mát mái: bác lên thành phố ở với thằng con trai, ba tháng sau đã bỏ về đây. Dạo đó hai bác đã luận bàn đủ thứ chuyện trên đời, Kazangap quả là một người thông thái. Có những điều đáng nhớ… Và bỗng nhiên Edigej vô cùng cay đắng khi hiểu ra rằng từ nay bác chỉ có thể nhớ lại mà thôi…

Edigej vội bước vào chòi khi nghe tiếng micro của máy đàm thoại nội bộ kêu lạo xạo. Trong cái máy ngớ ngẩn ấy có tiếng lọc ọc một lát, sau đó mới vang lên giọng nói:

- Bác Edigej, alo, bác Edigej - giọng trực ga Shajmerđen è è. - Bác nghe rõ không? Trả lời đi!

- Tôi nghe đây! Nghe rõ!

- Bác có nghe rõ không?

- Nghe rõ, nghe rõ!

- Rõ như thế nào?

- Như từ thế giới bên kia!

- Tại sao lại từ thế giới bên kia?

- Chả tại sao cả!

- À ra vậy… Nghĩa là tại ông lão Kazangap ở bên ấy!

- Ở bên ấy làm sao?

- Nghĩa là ông lão đã… sang thế giới bên kia - Shajmerđen cố tìm lối nói thích hợp. - Nói thế nào nhỉ? Nghĩa là ông lão đã đi hết chặng đường vinh quang của mình.

- Ừ - Edigej đáp gọn lỏn.

“Đồ khốn kiếp - bác nghĩ - người ta chết mà nó cũng chẳng biết cách nói cho nó giản dị”.

Shajmerđen ngừng một phút. Micro càng lạo xạo, lẹt xẹt, để lộ tiếng thở rõ hơn. Sau đó Shajmerđen lè nhè:

- Này, Edigej, yêu cầu bác đừng có làm tôi rối trí. Nếu ông lão chết thì chết chứ sao… Bây giờ chỗ tôi chẳng có ai hết, tại sao bác lại phải ngồi bên người chết mới được chứ? Ngồi như thế có làm cho ông lão sống lại được đâu kia chứ?

- Còn tôi thì tôi cho rằng cậu chẳng hiểu cái gì hết - Edigej nổi giận. - Đừng làm rối trí nghĩa là thế nào! Cậu mới về đây hơn một năm, còn tôi với bác Kazangap đã làm việc với nhau ba chục năm. Cậu nghĩ xem, một người trong số chúng ta qua đời, không ai được bỏ mặc người quá cố nằm chỏng chơ một mình trong ngôi nhà trống vắng như thế.

- Làm sao ông lão ấy biết mình nằm một mình hay có người ngồi bên?

- Nhưng chúng ta biết.

- Thôi được, bác đừng có làm ầm ĩ lên nữa!

- Đấy là tôi giải thích cho cậu nghe.

- Vậy bác muốn gì? Ở chỗ tôi chẳng còn ai cả. Bác có về chỗ ông lão thì cũng chả làm được việc gì sất, giữa lúc đêm hôm khuya khoắt thế này.

- Tôi sẽ cầu nguyện cho người quá cố. Đọc bài cầu nguyện ấy mà.

- Cầu nguyện? Bác, Edigej-Bão Tuyết mà lại cầu nguyện?

- Ừ, tôi. Tôi biết bài cầu nguyện.

- Hay chửa, sáu chục năm sống dưới chính quyền Xô Viết rồi.

- Cậu im đi, chính quyền Xô Viết thì dính dáng gì đến chuyện này! Người ta đã cầu cho vong linh người chết từ thời xửa thời xưa. Con người qua đời, chứ đâu phải con vật!

- Thôi được, bác cứ cầu nguyện, nhưng đừng có la ầm ĩ lên nữa. Tôi sẽ cho người đi gọi Edilbaj-Cò Hương, nếu ông ta đồng ý thì sẽ đến thay cho bác… Còn bây giờ thì chuẩn bị đi, đoàn tàu số 117 sắp tới ga, bác hãy đưa nó sang đường dự phòng….

Shajmerđen tắt máy đàm thoại nội bộ. Edigej vội ra chỗ bẻ ghi, và trong khi làm phận sự, bác cứ nghĩ: không biết Edilbaj có đồng ý đến thay mình chăng. Và bác thêm hy vọng - dầu sao người ta vẫn có lương tâm - khi bác nhìn thấy cửa sổ của mấy ngôi nhà bừng sáng, bầy chó sủa ầm ĩ. Nghĩa là vợ bác đang đi đánh thức dân Boranly dậy.

Trong lúc ấy, đoàn tàu số 117 đã chạy vào đường dự phòng. Từ đầu ga đằng kia tiến lại một đoàn tàu chở dầu - toàn là những xitec. Hai đoàn tàu gặp nhau, một chạy về hướng đông, một chạy về hướng tây.

Đã hai giờ sáng. Các ngôi sao trên trời đua nhau lấp lánh, mỗi ngôi một vẻ lung linh riêng. Và mặt trăng trên bầu trời Sarozek bắt đầu chiếu rõ hơn, dường như được tiếp thêm một sức mạnh nào đấy. Còn bên dưới, trên thảo nguyên Sarozek mênh mông tít tắp, chỉ thấy hình bóng bầy lạc đà, trong đó nổi lên Karanar-Bão Tuyết cao lớn và những đường viền mờ nhạt của các gò đống ở gần. Ngoài ra, mọi vật đều chìm vào bóng đêm vô tận. Gió không chịu ngủ, cứ thổi rù rù.

Edigej hết vào lại ra khỏi chòi, ngóng trông Edilbaj có xuất hiện trên đường tàu hay không. Bỗng bác thấy một con thú nhỏ ở vệ đường. Đấy là con cáo nọ, cặp mắt nó ánh lên màu xanh nhấp nháy. Nó ủ rũ đứng dưới chân cột điện báo, không định tiến lại gần hay bỏ chạy.

- Mày làm gì ở đây hả! - Edigej giơ một ngón tay đe nó. - Liệu hồn! Tao thì tóm cổ! - và bác dậm chân một cái.

Con cáo nhảy lui vài bước và ngồi xuống, quay nghiêng về phía bác. Nó nhìn chăm chú và đau khổ, bác có cảm tưởng nó không chớp mắt, cứ trân trân nhìn bác hoặc nhìn vật gì đó ở cạnh bác. Cái gì đã lôi cuốn nó, tại sao nó lại xuất hiện ở đây? Nó bị thu hút bởi ánh đèn điện, hay là nó đến đây vì quá đói? Edigej thấy cử chỉ của nó rất lạ. Và tại sao mình không choảng cho nó một cục đá, khi con mồi dẫn xác tới nhỉ? Edigej đưa chân tìm một hòn đá to hơn. Bác ngắm và vung tay định ném, nhưng lại thôi. Hòn đá rơi xuống chân, thậm chí bác toát mồ hôi. Quái lạ thật! Đầu óc con người sao mà nghĩ lắm chuyện! Đang định ném chết con cáo, đột nhiên lại nhớ có ai đó đã kể - hình như một thằng cha thợ sửa chữa, hoặc một tay phóng viên nhiếp ảnh đã cùng bác trò chuyện về Chúa Trời, hay là một gã nào đó… À mà không phải, chính cái thằng Shabitzhan đã kể, thằng khốn kiếp ấy lúc nào cũng kể những chuyện thần kỳ, lạ lùng chỉ để thắng người khác. Thằng Shabitzhan, con của Kazangap, đã kể về việc chuyển chỗ ở của các linh hồn sau khi chết.

Thật là một đứa bẻm mép, vô tích sự. Thoạt nhìn, nó không đến nỗi nào. Nó biết tất cả mọi chuyện, nó nghe cũng đủ thứ chuyện. Nó đã được dạy dỗ ở các trường nội trú, các trường đại học, nhưng lại không nên người. Nó thích khoe khoang, nhậu nhẹt, chuốc rượu thì chả ai bằng, nhưng chẳng làm nên việc gì. Tóm lại, một cái thùng rỗng; trái ngược hẳn với Kazangap, mặc dù nó có bằng nọ bằng kia. Không, con không giống bố, thằng con hư hỏng. Nhưng mặc kệ, nó đã thế, còn biết làm sao bây giờ.

Có lần, nó kể bên Ấn Độ, người ta tin vào một giáo lý, cho rằng khi một người chết đi, thì linh hồn người đó nhập vào một sinh vật nào đấy, một sinh vật bất kỳ, có thể là một con kiến. Rằng mỗi người, từ kiếp trước đã từng là một con chim, một con thú, thậm chí một loại sâu bọ nào đó. Vì thế, giết bất cứ con vật nào, dù là một con rắn thường hay rắn độc cũng là có tội; nếu gặp nó trên đường, ta phải cúi chào và nhường đường cho nó.

Đời thật lắm chuyện kỳ lạ. Ai biết chuyện đó có thực đến mức nào, thế gian mênh mông, con người biết sao hết được mọi thứ. Vì thế, lúc định ném đá giết con cáo, Edigej chợt nghĩ: nhỡ linh hồn Kazangap bấy giờ đã nhập vào nó thì sao? Rất có thể, sau khi nhập vào con cáo, Kazangap đã đến chỗ người bạn tốt nhất của mình; bởi vì sau khi bác ấy chết, ngôi nhà bằng đất của bác trở nên trống trải, hiu quạnh, đầy buồn thảm… “Mình lẩm cẩm mất rồi! - Edigej trách thầm và xấu hổ. - Sao lại nghĩ vớ vẩn như thế nhỉ? Mình lú lẫn rồi chăng?”.

Bởi vậy, khi tiến từ từ về phía con cáo, Edigej nói với nó như thể nó hiểu được tiếng người:

- Đi đi, đây không phải là chỗ của mày! Hãy ra thảo nguyên. Nghe rõ chưa? Đừng đi về phía khu ga, ở đấy có lũ chó. Mày hãy ra với thảo nguyên của mày.

Con cáo quay người bỏ đi. Nó ngoảnh lại hai lần, rồi biến mất trong bóng đêm.

Lại một đoàn tàu nữa chạy vào ga. Đoàn tàu lịch kịch giảm dần tốc độ, quyện theo một đám bụi mù trên các nóc toa. Khi nó dừng hẳn, từ trên đầu máy vẫn đang hoạt động, người tài xế ló ra:

- Ấy, Edigej-Bão Tuyết, asalam aleikum!

- Alekim - asalam!

Edigej nghểnh đầu để nhìn rõ hơn người kia là ai. Trên tuyến đường này tất cả mọi người đều biết nhau. Thì ra người tài xế là một thanh niên, Edigej nhờ anh ta, khi tàu đến ga Kumbel - một ga lớn, nơi Ajzada đang ở, - báo cho cô ấy biết bố cô ấy đã chết. Anh tài xế sẵn sàng làm giúp điều ấy vì kính trọng hương hồn bác Kazangap, hơn nữa tại Kembel sẽ thay tổ lái, thậm chí anh ta còn hứa trên chuyến quay trở lại, sẽ cho cả gia đình Ajzada đi nhờ về đây, nếu chị ấy chuẩn bị kịp.

Một người đáng tin cậy. Edigej cảm thấy nhẹ nhõm hơn, thế là xong được một việc.

Vài phút sau đoàn tàu chuyển bánh, và khi từ biệt anh tài xế, Edigej thấy một người gầy gò đang men theo vệ đường dọc đoàn tàu đang tăng dần tốc độ, đi về phía bác. Edigej nhận ra đó là Edilbaj.

Trong lúc Edigej bàn giao công việc, nói vài lời với Edilbaj-Cò Hương về chuyện vừa xảy ra - cả hai đều thở vắn than dài nhớ đến Kazangap, - tại ga Boranly-Bão Tuyết đã có hai đoàn tàu chạy qua, theo hai hướng khác nhau. Và khi đã xong việc, trên đường về nhà, Edigej mới sực nhớ đã quên không nhắc vợ, nói đúng hơn là hỏi ý kiến vợ, về chuyện bằng cách nào báo tin cho hai đứa con gái và hai chàng rể của mình về cái chết của ông lão Kazangap. Hai cô con gái của Edigej lấy chồng ở một vùng gần thành phố Kyzyl-Orda. Cô lớn sống ở một nông trường quốc doanh trồng lúa, chồng làm thợ lái máy kéo. Cô thứ hai lúc đầu sống ở ga ngoại ô Kazalinsko; sau đó cùng gia đình chuyển đến nông trường quốc doanh với cô chị, chồng làm lái xe. Và mặc dù Kazangap không phải người thân thích với chúng nó, song nhất thiết chúng nó phải về dự lễ tang. Edigej cho rằng đối với chúng nó, Kazangap còn thân thiết hơn bất cứ người bà con ruột thịt nào khác. Hai đứa chúng nó đã ra đời bên cạnh Kazangap ở ga Boranly-Bão Tuyết. Chúng đã lớn lên ở đấy, đã học ở trường phổ thông; và thi vào trường nội trú tại khu ga Kumbel, thì chính Edigej hoặc Kazangap đã nhiều lần đưa đón chúng. Nhớ dạo hai đứa còn nhỏ, bác đã dùng lạc đà chở chúng về nghỉ hè hoặc trở lại khi tựu trường. Bố ngồi giữa, con em ngồi đằng trước, con chị đằng sau. Từ Boranly-Bão Tuyết đến Kumbel, con Karanar rảo bước mất ba giờ, mùa đông thì lâu hơn một chút. Nếu Edigej bận, Kazangap sẽ đưa đón chúng, ông coi chúng như con đẻ. Edigej quyết định sớm mai sẽ đánh điện cho các con để chúng liệu thu xếp. Về hay không còn tuỳ, nhưng ít ra chúng phải biết rằng bác Kazangap đã qua đời…

Sau đó vừa đi bác vừa nghĩ, rằng sáng mai, việc đầu tiên là đem con Karanar ngoài bãi chăn về, sẽ rất cần đến nó. Trên đời này, chết không đơn giản, mà chôn cất một người cho xứng đáng cũng chẳng dễ gì… Bao giờ cũng thiếu sót cái này, cái nọ, cái gì cũng phải tìm kiếm vội vội vàng vàng, kể từ tấm vải liệm cho đến món củi để đun làm bữa cúng.

Đúng lúc ấy, có một cái gì đó vỡ ra trên không trung, giống như ở ngoài mặt trận, vọng lại tiếng ầm ầm của sóng nổ cực mạnh, và mặt đất dưới chân rung chuyển. Đằng trước, rất xa trong thảo nguyên, về phía sân bay vũ trụ Sarozek, Edigej nhìn thấy một khối lửa lớn dần, từ dưới đất lao vút lên trời. Bác cũng sững sờ trước cảnh một quả tên lửa bay vào vũ trụ, cảnh này bác chưa từng thấy bao giờ. Cũng như mọi người dân Sarozek, bác biết rằng ở cách đây chừng bốn năm chục cây số có sân bay vũ trụ Sarozek - rằng có một nhánh đường sắt riêng chạy từ ga Togrek-Tam tới sân bay ấy. Người ta còn kể rằng ở đằng ấy, giữa thảo nguyên, đã mọc lên một thành phố lớn với những cửa hàng đồ sộ. Bác đã nghe đài, nghe kể, đọc báo, không biết bao nhiêu chuyện về các nhà du hành vũ trụ, về các chuyến bay vũ trụ. Ở các buổi ca nhạc nghiệp dư trên tỉnh, trẻ em có bài hát đồng ca rằng chúng ta là những đứa trẻ sung sướng nhất trên đời, bởi vì các chú phi hành gia đã đi vào vũ trụ từ quê hương của chúng. Nhưng vì tất cả những thứ nằm trong khu vực sân bay vũ trụ bị coi là vùng cấm, nên Edigej tuy sống rất gần đấy, cũng mới chỉ được nghe, được biết thế thôi.

Đêm nay, lần đầu tiên bác chứng kiến tận mắt tên lửa vũ trụ lao vút lên trời, như một khối lửa sôi sùng sục, rọi sáng lóa cả một vùng. Edigej chợt rùng mình - lẽ nào lại có người ngồi trong khối lửa ấy? Một hay hai người? Và tại sao bác sống thường xuyên ở đây mà chưa bao giờ bác nhìn thấy thời điểm tàu vũ trụ cất cánh, trong khi người ta đã bay bao nhiêu chuyến rồi! Có lẽ những lần trước họ cất cánh vào ban ngày. Dưới ánh mặt trời, ở khoảng cách xa như thế, vị tất đã nhìn thấy rõ. Còn lần này, tại sao lại phóng đi vào ban đêm? Vì vội vã, hay theo kế hoạch định trước? Có lẽ nó khởi hành từ trái đất ban đêm, nhưng lên trên đó lập tức là ban ngày chăng? Shabitzhan từng kể, tựa hồ chính nó đã lên trên ấy, rằng ở trong vũ trụ cứ mỗi nửa giờ, ngày đêm lại thay thế nhau. Phải hỏi kỹ thằng Shabitzan mới được, nó biết hết mọi điều, nó chỉ thích làm nhân vật quan trọng. Gì thì gì chứ nó cũng làm việc ở trên tỉnh, chỉ mong nó đừng có bịa thêm, để làm quái gì kia chứ? Anh là ai thì cứ hãy tự đúng là mình. “Cháu đã gặp ông này, ông nọ, có ông to lắm, đã từng bàn bạc với nhau bao nhiêu điều… ”. Thế nhưng Edilbaj-Cò Hương sau lần lên tỉnh gặp Shabitzan lại kể khác. Anh ta bảo chỉ thấy thằng Shabitzan chạy nháo nhào từ bàn máy điện thoại tới cửa phòng làm việc chỗ khách ngồi đợi, chỉ thấy nó luôn miệng: “Tôi nghe đây, thưa đồng chí Alzhapar Kakharmanovich! Xin tuân lệnh đồng chí Alzhapar Kakhamanovich! Dạ có ngay, thưa đồng chí Alzhapar Kakhamanovich”. Còn cái ông nhà Alzhapar kia thì chỉ ngồi trong phòng làm việc và luôn tay ấn những cái nút gì đó. Bởi vậy, Edilbaj chẳng kịp nói chuyện ra đầu ra đũa với Shabitzhan… Đấy, Edilbaj kể, cái thằng đồng hương của chúng ta hóa ra là như thế đấy. Mặc xác nó muốn trở nên thế nào cũng được… Chỉ thương bác Kazangap, bác ấy vốn hết lòng chăm lo cho thằng con trai. Cho đến mãn đời không hề nói gì xấu về nó, thậm chí bác ấy đã ra thành phố ở với vợ chồng nó; chính vợ chồng nó đã nài nỉ mời bác ấy lên tỉnh và chở bác ấy đi. Vậy mà kết cục là… Nhưng thôi, đó lại là chuyện khác…

Adigej đi trong đêm với những ý nghĩ như thế, sau khi bác nhìn theo con tàu vũ trụ cho đến lúc nó mất hút. Khi khối lửa nhỏ dần, chìm vào bầu trời đêm, biến thành một điểm khói trắng, bác mới bắt đầu đi tiếp, lòng tràn ngập những cảm giác lạ lùng, trái ngược nhau. Bác khâm phục cảnh tượng vừa rồi, song đồng thời cũng hiểu rằng đó là công việc xa lạ đối với mình, một việc làm cho người ta kinh ngạc và hoảng sợ. Lúc ấy bác chợt nhớ đến con cáo nhỏ đã mon men tới gần đường tàu, nó sẽ kinh hoảng biết chừng nào, khi con rồng lửa khủng khiếp kia vút qua thảo nguyên trống trải. Chắc nó chẳng biết náu mình vào đâu…

Nhưng ngay bác, Edigej-Bão Tuyết, người chứng kiến quả tên lửa được phóng lên vũ trụ vào ban đêm, cũng đâu biết, và cũng không được quyền biết rằng đó là chuyến bay cấp cứu, hỏa tốc của một con tàu vũ trụ có người lái, đã cất cánh mà không có nghi thức long trọng, không có các phóng viên tham dự; đã cất cánh vì một sự kiện đặc biệt xảy ra trên trạm vũ trụ ‘Paritet-Song Đôi’ hoạt động hơn một năm rưỡi nay, theo chương trình hợp tác Xô-Mỹ, mang tên ‘Tramplin’. Làm sao Edigej biết được tất cả những chuyện đó? Bác cũng không ngờ rằng sự kiện ấy sẽ liên quan đến cả bác, đến cuộc sống của bác, và chẳng phải chỉ vì mối liên hệ mật thiết giữa một người với cả loài người trong ý nghĩa phổ quát của nó mà đó là mối quan hệ hết sức cụ thể và trực tiếp. Bác lại càng không biết và không thể ngờ rằng chỉ ít giây sau, khi con tàu kia cất cánh khỏi sân bay vũ trụ Sarozek, thì ở phía bên kia hành tinh, từ sân bay vũ trụ Neveda của Mỹ cũng đã bay lên một con tàu có nhiệm vụ hệt như thế, cũng bay lên trạm ‘Paritet’, cũng tới quỹ đạo ‘Tramplin’, có điều là theo chiều quay ngược lại.

Hai con tàu được cấp tốc phóng lên vũ trụ theo mệnh lệnh phát đi từ tàu sân bay nghiên cứu khoa học ‘Convention’ (thỏa thuận). Đó là trạm nổi trên đại dương của trung tâm liên hợp Xô-Mỹ, điều khiển chương trình ‘Demiurge’ (Đấng sáng thế).

Tại sân bay ‘Convention’ đậu tại khu vực thường trú của nó trên Thái Bình Dương, phía nam quần đảo Aleut, ở tọa độ cách Vlapostok và San Francisco một khoảng cách bằng nhau. Trung tâm liên hợp điều khiển chương trình - gọi tắt là Trung tâm điều khiển - lúc này đang căng thẳng theo dõi đường bay của cả hai con tàu lên quỹ đạo ‘Tramplin’.

Tạm thời mọi chuyện diễn biến tốt đẹp, sẽ phải lắp ghép hai con tàu với tổ hợp ‘Paritet’. Một nhiệm vụ cực kỳ phức tạp, việc lắp ghép phải diễn ra không theo kiểu lần lượt - hết con tàu thứ nhất mới đến con tàu thứ hai - mà đồng thời với một khoảng thời gian, từ cả hai phía khác nhau của trạm.

‘Paritet’ không hề trả lời các tín hiệu của Trung tâm điều khiển, phát đi từ tàu ‘Convention’ suốt hơn mười hai giờ qua; cũng không đáp lại tín hiệu của hai con tàu đang tiến lại lắp ghép với nó… Còn phải biết rõ điều gì đã xảy ra với tổ lái ‘Paritet’.