← Quay lại trang sách

Chương 2

Những chuyến tàu ở vùng này chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông..

Trải rộng hai bên đường tàu ở vùng này là những hoang mạc mênh mông - miền Sarozek và các thảo nguyên úa vàng thuộc miền Đất Giữa.

Ở vùng này, mọi khoảng cách bất kỳ đều được đem so với con đường sắt, như so với kinh tuyến Greenwich.

Những chuyến tàu vẫn chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông…

Từ ga Boranly-Bão Tuyết đến nghĩa địa Ana-Bejit của bộ tộc Najman ít ra phải xa đường sắt đến 30 kilômét, đấy là theo đường thẳng và với cách ước lượng của người dân vùng Sarozek. Nếu không đi liền để khỏi bị lạc giữa thảo nguyên, thì nên đi dọc theo tuyến đường sắt, nhưng khi đó quãng đường đến nghĩa địa sẽ xa hơn: sẽ phải đi vòng đến tận khúc quanh thung lũng Kybyksai, rồi quẹo về phía nghĩa địa Ana-Bejit. Không còn lối thoát nào khác, thế là ngắn nhất cũng mất ba chục versta[3] đường đi và ngần ấy đường về.

Nhưng ngoài Edigej ra, thì chẳng một ai trong số dân Boranly hiện nay biết đường đi tới đó; tuy họ cũng nghe nói đến nghĩa địa Bejit lâu đời, qua nhiều câu chuyện nửa như cổ tích, nửa như truyền thuyết. Nhiều năm nay, đây là trường hợp đầu tiên ở Boraly-Bão Tuyết, một cái ga xép có tám nóc nhà, mới có người chết phải đem chôn cất. Cách đây mấy năm, khi một cháu gái bị chết vì bệnh suyễn, cha mẹ cháu đã đem thi hài cháu về chôn cất ở tỉnh Ural quê họ. Còn vợ Kazangap - bà lão Bukej - thì yên nghỉ tại nghĩa trang cạnh ga Kumbel: bà lão mất ở bệnh viện trên ấy cách đây mấy năm, và người ta đã quyết định mai táng tại đó. Đưa bà lão về Boranly-Bão Tuyết là vô nghĩa. Kumbel là ga lớn nhất ở miền Sarozek; hơn nữa, ở đấy có cô con gái Ajzada và thằng con rể tuy nghiện ngập hư đốn, nhưng dầu sao cũng là thân thích ruột rà. Chúng nó sẽ chăm nom phần mộ. Vả chăng, hồi ấy bác Kazangap còn sống, bác ấy tự quyết định nên làm thế nào.

Còn bây giờ người ngoài phải nghĩ cách làm… Tuy nhiên Edigej cương quyết giữ ý kiến của mình. Bác bảo bọn trẻ:

- Các anh các chị hãy vứt bỏ cái lối thiếu hào hiệp ấy đi. Chúng ta sẽ mai táng một người như bác Kazangap ở Ana-Bejit, nơi tổ tiên yên nghỉ, theo đúng lời dặn của người quá cố. Đừng nói nữa, hãy bắt tay vào việc chuẩn bị đi. Đường xa đấy, sáng mai ta sẽ khởi hành sớm…

Tất cả đều hiểu Edigej có quyền quyết định, và họ đồng ý. Kể ra Shabitzhan có thử phản đối, cậu ta kịp về ngay hôm sau trên một chuyến tàu hàng - tàu khách không dừng ở ga này. Và cái việc cậu ta về đây, tuy chưa nhận được tin bố sống hay chết, chỉ riêng điều đó đã khiến Edigej cảm động, thậm chí vui sướng. Và có những phút hai chú cháu đã ôm nhau khóc vì nỗi đau khổ chung. Sau đó, Edigej tự ngạc nhiên về mình. Trong lúc ấp đầu Shabitzhan vào ngực, bác đã không kềm chế được, vừa nói vừa nức nở: “Con đã về, tốt lắm! Con đã về là tốt lắm!” - cứ như thể thằng Shabitzhan về có thể làm cho Kazangap sống lại không bằng. Và tại sao Edigej lại khóc lóc, chính bác cũng chẳng hiểu nữa. Hai chú cháu ôm nhau khóc một hồi lâu ngoài sân, trước cửa ngôi nhà bằng đất trơ trọi của Kazangap. Nhớ dạo Shabitzhan lớn lên trước mắt bác, thằng bé được bố nó yêu quý hết mực, được đưa vào học trường nội trú Kumbel dành riêng cho con em cán bộ đường sắt. Nhớ những khi rỗi rãi họ đã đáp tàu hoặc cưỡi lạc đà lên thăm nó xem nó sống ở ký túc xá thế nào, có làm mếch lòng ai chăng, có vi phạm kỷ luật hay không, học hành ra sao, thầy cô giáo nhận xét gì về nó… Những khi đón nó về nhà chơi, đã bao lần bác dùng áo lông bọc kín, chở nó lên lạc đà, vược qua bão tuyết hoặc giá rét, chỉ cốt nó kịp giờ học…

Ôi, những ngày tháng này không bao giờ trở lại nữa! Tất cả đã trôi qua như một giấc mơ. Bây giờ trước mặt bác là một người lớn, chỉ còn hơi giống thằng Shabitzhan hồi bé - mắt óc nhồi, hay cười. Bây giờ nó mang kính, đội mũ rộng vành, đeo chiếc cà vạt nhàu. Nó làm việc ở trên tỉnh và rất muốn làm ra vẻ một cán bộ quan trọng. Nhưng cuộc sống này điên đảo lắm, không dễ gì leo lên chức này chức nọ, như chính nó nhiều lần đã phàn nàn, nếu không có người mạnh thế nâng đỡ, nếu không quen biết rộng, hoặc có họ hàng làm lớn. Nó chỉ là con trai của một bác công nhân Kazangap nào đấy ở cái ga xép Boranly-Bão Tuyết nào đấy. Khốn khổ chưa! Nhưng bây giờ thì bố nó cũng không còn nữa, một ông bố vô tích sự nhưng giá còn sống vẫn tốt hơn nghìn lần một ông bố vẻ vang đã chết…

Sau đó, nước mắt cũng cạn. Họ chuyển sang trò chuyện, bàn bạc công việc. Lúc ấy mới vỡ lẽ rằng cậu con trai yêu quý - cậu con trai cái gì cũng biết ấy - về đây không phải để làm lễ mai táng mà chỉ là để chôn bố cho sớm, rồi cuốn gói thật nhanh. Nó bắt đầu phát ra những ý kiến như thế này: làm quái gì phải cất công đưa đến tận nghĩa địa Ana-Bejit xa xôi, quanh đây rộng mênh mông, cả một vùng thảo nguyên hiu quạnh chạy dài đến cùng trời cuối đất. Có thể đào một cái hố ở gần đâu đây, trên một cái gò nào đấy, cạnh đường xe lửa. Cứ để cho ông lão bẻ ghi nằm đó mà nghe tiếng xe lửa chạy trên đường ray, nơi ông đã làm việc cả đời. Thậm chí nó còn nhắc đến câu tục ngữ xa xưa: “Sinh dữ tử lành, chôn nhanh hết nợ”. Dây dưa mà làm gì, bàn bạc mà làm chi, chôn ở đâu mà chả thế, những việc như thế này kết thúc càng sớm càng hay.

Nó lập luận theo kiểu đó, còn bản thân nó như muốn biện bạch rằng bao nhiêu việc quan trọng và cần kíp đang chờ nó ở cơ quan, mà thời gian thì quá ít, ai chả biết thủ trưởng đâu có quan tâm đến chuyện nghĩa địa ở xa hay gần, đã ra lệnh cho nó phải có mặt ở cơ quan vào ngày này giờ nọ. Thủ trưởng là thủ trưởng, thành phố là thành phố…

Edigej tự rủa thầm mình là một lão già ngu ngốc. Bác xấu hổ và tiếc rằng đã khóc nấc lên cảm động khi thấy thằng Shabitzhan xuất hiện, tuy thật sự nó là con trai ông già Kazangap. Edigej đứng dậy, lúc ấy có năm người đang ngồi trên đống tà vẹt cũ kê sát tường làm ghế, và bác phải nén lắm mới khỏi nặng lời trước mặt mọi người vào một ngày như thế này. Vì nghĩ đến Kazangap, bác chỉ nói:

- Dĩ nhiên quanh đây thì thiếu gì chỗ, muốn bao nhiêu chẳng có. Nhưng tại sao người ta lại không chôn cất người thân của mình theo kiểu bạ đâu chôn đấy? Phải có lý do chứ! Chả lẽ họ tiếc đất? - bác ngừng lời và mấy người Boranly im lặng nghe bác. - Các vị hãy quyết định lấy, hãy suy nghĩ thêm, còn tôi đi xem công việc đến đâu rồi.

Đoạn bác bước ra với vẻ mặt sa sầm, khó chịu, như muốn tránh xa tội lỗi. Lông mày bác nhíu lại ở góc mũi. Tính bác vốn nóng nảy, thẳng thừng - người ta đã gọi bác là ‘Bão Tuyết’ còn vì biệt hiệu ấy rất hợp với tính nết bác. Vừa rồi, nếu chỉ có riêng bác với Shabitzhan, chắc bác đã đốp vào mặt nó - cái mặt trơ trẽn - tất cả những lời nó đáng phải nghe, cho nó nhớ đời! Nhưng bác chẳng muốn về hùa với đám đàn bà. Cánh phụ nữ đang xì xào tức giận, họ bảo thằng con trai về làm tang cho cha mà như đi chơi, hai tay đút túi quần. Ít ra cũng mang về mấy gói trà, chưa nói gì về các khoản khác. Rồi vợ nó, một đứa con dâu thành thị, lẽ ra phải tỏ thái độ tôn trọng bố chồng, phải về đây khóc lóc vài tiếng chứ. Chẳng còn biết xấu hổ là gì, đồ vô lương tâm. Hồi ông lão còn sống và dư dật - có hai con lạc đà cho sữa, gần hai chục con cừu cái với bầy cừu con - thì nó bố bố con con. Nó mò về luôn, dỗ ngon dỗ ngọt ông lão bán sạch các thứ đó, rồi lên thành phố ở với vợ chồng nó. Còn số tiền ấy, chúng nó mua sắm đồ gỗ và xe hơi, xong xuôi, chúng nó coi bố là đồ thừa. Bây giờ bố chồng chết, nó không thèm ló mặt về. Cánh phụ nữ định làm ầm lên, nhưng Edigej không cho phép. Này các bà - bác nói - đừng có mở miệng nói năng lung tung vào dịp này. Đấy không phải là việc của chúng ta, hãy để chúng nó tự khu xử lấy…

Bác bước ra chỗ chuồng lạc đà, ở đó, con Karanar-Bão Tuyết được lùa từ bãi chăn về, đang bị buộc mũi, chốc chốc lại kêu lên bực bội. Nếu không kể hai lần con Karanar cùng bầy lạc đà kéo nhau ra uống nước tại chồ giếng bơm, thì hầu như cả tuần, suốt ngày đêm, nó được thả rông hoàn toàn. Nó cam chịu ở trong chuồng, con vật quái ác, và bây giờ nó đang tỏ rõ sự bất mãn - giận dữ ngoác to cái mồm lởm chởm những răng, thỉnh thoảng lại rống lên, ra cái điều ta bị trói chân trói cẳng, trong khi lẽ ra nó phải biết điều một chút.

Edigej bước lại bên nó với tâm trạng bực tức sau khi nói chuyện với Shabitzhan, mặc dù bác đã biết trước cái thằng ấy vốn dĩ như vậy. Cứ như thể Shabitzhan về dự đám tang bố có nghĩa là nó ban ơn cho mọi người ở đây. Đối với nó, đây là cái gánh nặng cần được vứt bỏ thật nhanh chóng. Edigej chẳng muốn phí lời với nó nữa, bởi lẽ đằng nào bác cũng phải tự lo liệu mọi việc, và đã có xóm giềng hỗ trợ. Tất cả những ai không bận công tác đều giúp bác chuẩn bị lễ mai táng và bữa cúng ngày mai. Phụ nữ đi mượn bát đĩa, cọ rửa các ấm xamova, nhào bột, và đã bắt đầu nướng bánh; nam giới thì gánh nước, cưa các thanh tà-vẹt gỗ phế thải làm củi đun, - ở giữa thảo nguyên trần trụi này, chất đốt bao giờ cũng hiếm như nước. Chỉ riêng Shabitzhan lăng xăng, làm mất thời giờ của mọi người, luôn miệng ba hoa đủ chuyện, nào vị nọ vị kia giữ chức vụ gì trên tỉnh, ai được thăng, ai bị cách chức. Còn chuyện vợ nó không về làm ma bố chồng chẳng hề làm nó lúng túng chút nào: Thật là lạ! Vợ tôi - nó nói - bận tham gia một hội nghị gì đấy, các bà ạ, tại hội nghị ấy sẽ có mặt các vị khách ngoại quốc cơ. Về khoản tại sao các con của nó không về, thì nó lờ đi. Các con của nó còn bận phấn đấu học giỏi, đi học đều đặn để được nhận bằng tốt nghiệp loại xuất sắc, thuận lợi cho việc thì đại học. Edigej giận dữ nghĩ thầm: “Chúng nó là cái loại người gì vậy! Đối với chúng nó, mọi việc trên đời đều hệ trọng, trừ cái chết!”. Và điều đó khiến bác thấy bất nhẫn: “Nếu cái chết đối với chúng chẳng là gì cả, thì hóa ra cuộc sống cũng không có giá trị nào hết. Vậy thì chúng sống để làm gì và sống như thế nào?”…

Edigej thầm mắng con Karanar:

- Đồ cá sấu, làm gì mà mày cứ nhặng xị lên thế? Sao mày cứ ngẩng lên trời mà rống, tựa hồ ông trời trên kia có thể nghe thấy tiếng mày không bằng? - Edigej gọi con lạc đà của mình là đồ cá sấu chỉ trong những trường hợp hãn hữu, khi bác hoàn toàn mất kềm chế. Biệt hiệu ấy là do những người thợ làm đường đặt cho con Karanar-Bão Tuyết vì cái mồm lởm chởm răng và tính nết đáo để của nó. - Mày cứ rống nữa đi, đồ cá sấu, rồi tao sẽ bẻ sạch răng của mày cho mà xem!

Đến lúc thắng yên lên mình lạc đà, Edigej thấy nguôi ngoai cơn giận. Bác ngắm con vật, Karanar-Bão Tuyết vốn khỏe và đẹp. Tuy Edigej khá cao, song cũng không thể với tay tới đầu nó. Edigej khéo léo níu cổ con lạc đà xuống, gõ gõ ngọn roi vào hai đầu gối đầy vết chai của nó, nghiêm giọng bắt nó quỳ xuống. Tuy vùng vằng, con lạc đà vẫn tuân lệnh chủ và cuối cùng, sau khi thu chân lại, nó tì ngực xuống đất nằm im để chủ làm việc.

Thắng yên lên mình lạc đà một cách thực sự - đó là một việc vất vả như xây một ngôi nhà vậy. Phải khéo léo, tốn nhiều công sức, nhất là đối với một con lạc đà khổng lồ như con Karanar.

Không phải bỗng dưng người ta đặt cho nó cái biệt danh Karanar, nghĩa là Quỷ Đen. Cái đầu đen xù xì, bộ râu rậm màu đen kéo lên tận bờm, toàn bộ phần dưới cổ lông đen tuyền, mọc dài và dày như một cái bờm xuống tận đầu gối - thứ trang sức chủ yếu của con đực - hai cái bướu căng phồng nổi cao như hai cái tháp trên lưng. Thêm vào đó là cái chót đuôi đen sậm, toàn bộ phần còn lại - phần trên của chiếc cổ, bộ ức, hai bên sườn, bốn chân, bụng - thì ngược lại, tuyền một màu hạt dẻ sáng. Con Karanar-Bão Tuyết đẹp và nổi tiếng chính nhờ vóc dáng và bộ lông của nó. Và thời sung sức nhất của nó là vào lúc nó ở tuổi hai mươi.

Lạc đà sống rất lâu, có lẽ vì thế mà năm tuổi chúng mới đẻ con và cách hai năm mới đẻ một lần. Thời gian mang thai cũng lâu hơn mọi giống vật khác - những mười hai tháng. Lạc đà con được săn sóc cẩn thận trong một năm rưỡi đầu, để khỏi bị đau ốm, tránh gió máy thảo nguyên, sau đó nó lớn lên từng ngày và chẳng sợ giá rét, nóng bức hay tình trạng khát nước nào nữa…

Edigej rất thạo việc chăm sóc lạc đà - con Karanar-Bão Tuyết luôn luôn khỏe mạnh. Dấu hiệu đầu tiên của sức khỏe là hai cái bướu đen của nó cứ thô lố như hai khối gang. Hồi Kazangap tặng bác chú lạc đà Karanar đang còn bú mẹ, bé xíu và lông mượt như tơ hệt một chú vịt con, Edigej mới đến lập nghiệp ở Boranly-Bão Tuyết này, sau khi từ mặt trận trở về được vài năm. Hồi ấy Edigej còn trẻ lắm, đâu ngờ bác lại sống ở đây cho đến lúc bạc đầu. Đôi khi xem lại các bức ảnh cũ, chính bác không tin mắt mình nữa. Thay đổi ghê quá - già sọm hẳn đi, thậm chí lông mày cũng đã bạc trắng. Nét mặt dĩ nhiên cũng khác, riêng thể xác không nặng nề như thường thấy ở tuổi này. Hàng ria mép trở thành bộ râu lúc nào chẳng biết nữa, bây giờ hình như nhất thiết phải có râu, nếu không, khác gì ở truồng. Có thể nói cả một câu chuyện dài đã trôi qua từ ngày ấy.

Giờ đây, khi thắng yên con Karanar đang nằm dưới đất, đe nẹt nó lúc bằng giọng nói, lúc bằng cách vung tay, trong khi con lạc đà thỉnh thoảng gầm gừ hục hặc như một con sư tử, cái đầu xù xì trên chiếc cổ dài ngoẵng cứ quay qua quay lại, Edigej mới nhớ lại những chuyện xảy ra ngày xưa và lấy làm buồn lòng…

Bác loay hoay rất lâu, cứ sửa đi sửa lại mãi cái dây cương. Lần này, trước khi thắng yên, bác đã phủ lên mình con Karanar tấm chăn đẹp nhất dệt từ ngày xưa, có tua dài nhiều màu và các họa tiết trang trí như một tấm thảm. Bác không còn nhớ lần cuối cùng bác tô điểm cho con Karanar bộ yên hiếm có, được Ukubala gìn giữ cẩn thận như thế này, là hồi nào. Bây giờ mới lại đúng dịp…

Thắng xong yên cương, Edigej bắt Karanar đứng dậy và lấy làm hài lòng. Thậm chí bác kiêu hãnh về việc mình vừa làm. Karanar trông thật đường bệ, uy nghi với bộ yên cương trang trí giữa hai cái bướu. Không, phải để cho bọn trẻ, đặc biệt là thằng Shabitzhan chiêm ngưỡng, phải để chúng hiểu rằng chôn cất một người đã sống xứng đáng không phải là một thứ gánh nặng phiền phức, mà là một sự kiện tuy đau khổ nhưng vĩ đại và do đó, phải theo đúng nghi lễ. Có người được cử nhạc, phủ cờ, có người được bắn súng vĩnh biệt, có người được rước nhiều vòng hoa đến đặt trên mộ…

Còn bác, Edigej-Bão Tuyết, ngày mai, từ sáng, sẽ chỉ huy đám tang, sẽ cưỡi trên lưng con Karanar được trang điểm đẹp nhất, đưa linh cữu Kazangap tới nơi an nghỉ cuối cùng ở Ana-Bejit…. Và suốt dọc đường bác sẽ nghĩ đến Kazangap, khi vượt thảo nguyên Sarozek vĩ đại và trơ trụi. Và sẽ vừa suy nghĩ vừa trao Shazangap cho lòng đất nơi nghĩa địa của bộ tộc như lời dặn của người quá cố. Đúng, Kazangap đã dặn như vậy. Đường dù xa hay gần, nhưng không ai có thể ngăn cản bác thực hiện lời trối trăn của Kazangap, kể cả con trai của ông cụ.

Hãy để tất cả mọi người thấy rằng dù chuyện gì xảy ra, nhưng Karanar của bác cũng đã sẵn sàng - đã được thắng yên cương đẹp đẽ - để gánh vác phận sự nói trên. Hãy để mọi người nhìn thấy, Edigej cầm cương dắt con lạc đà ra khỏi chuồng, đi một vòng qua tất cả các nhà rồi buộc nó cạnh ngôi nhà bằng đất của ông già Kazangap. Hãy để mọi người nhìn thấy bác, Edigej-Bão Tuyết, không thể không giữ lời hứa của mình. Có điều là bác không cần phải phí công chứng minh điều đó, trong lúc bác thắng yên cương, Edilbaj-Cò Hương đã gọi Shabitzhan ra một chỗ vắng:

- Ta ra đằng kia nói chuyện một chút.

Hai người trao đổi không lâu. Edilbaj không thuyết phục, mà đốp chát thẳng thừng:

- Thế này, cậu Shabitzhan ạ, cậu hãy cảm ơn Thượng đế rằng trên đời còn có Edigej-Bão Tuyết, bạn của cha cậu. Và cậu chớ cản trở chúng tôi mai táng ông già một cách tử tế, nếu cậu vội, chúng tôi sẽ không giữ chân cậu. Tôi sẽ ném thêm vài cục đất thay phần của cậu!

- Đó là cha tôi, tôi biết chứ… - Shabitzhan vừa mở miệng, nhưng Edilbaj cắt ngang:

- Cha cậu thật đấy, nhưng cậu không đáng làm con.

- Ông nói gì vậy - Shabitzhan phản đối. - Thôi được, ta sẽ không cãi nhau vào dịp này. Thì cứ đem chôn ở Ana-Bejit, đâu chả được, chẳng qua là tôi thấy nó hơi xa…

Câu chuyện của họ chấm dứt ở đó. Và khi Edigej đã dắt con Karanar đi một vòng trở về nói với mọi người: “Xin các vị đừng nói những lời thiếu hào hiệp nữa. Một người như thế chúng ta sẽ mai táng ở Ana-Bejit… ”, thì không ai phản đối, tất cả im lặng tán thành.

Từ sáng đến tối mịt hôm ấy, tất cả đều quây quần trên sân, trước ngôi nhà người quá cố. May là thời tiết rất đẹp, sau cái nóng ban ngày, trời trở nên mát lạnh, cái mát sắp sang thu ở vùng Sarozek. Bầu không khí vĩ đại, tĩnh mịch, lặng gió, trùm khắp buổi hoàng hôn. Chiều tối, người ta đã xả thịt xong một con cừu to cho bữa cúng ngày mai. Lúc này họ ngồi uống trà bên các ấm xamova bốc hơi nghi ngút và nói đủ thứ chuyện… Hầu hết các món ăn đã được chuẩn bị xong, chỉ còn đợi sáng mai khởi hành đi Ana-Bejit. Buổi tối trôi qua êm ả đúng như khi có một vị cao niên qua đời.

Vẫn như mọi ngày, những chuyến tàu vẫn gặp nhau và tránh nhau ở ga Boranly-Bão Tuyết, vẫn chạy từ đông sang tây và từ tây sang đông….

Suốt buổi tối hôm ấy, mọi việc dường như bình thường, nếu không xảy ra một chuyện buồn lòng. Ấy là khi vợ chồng Ajzada đáp nhờ chuyến tàu hàng về chịu tang bố. Ajzada vừa xuất hiện đã khóc ầm lên, thế là cánh phụ nữ vây quanh chị ta cũng khóc theo. Nhất là bà Ukubala khóc thật thảm thiết, bà rất thương Ajzada, hai cô cháu cứ ôm nhau khóc nức nở. Edigej cố an ủi Ajzada: Thôi cháu ơi, biết làm thế nào bây giờ, ta có chết theo người quá cố được đâu, đành phải chấp nhận số mệnh vậy. Nhưng Ajzada vẫn chưa nguôi.

Sự đời thường như vậy - cái chết của ông bố là cái cớ để chị ta than khóc, bày tỏ nỗi lòng chất chứa lâu nay trước mặt mọi người. Ajzada gọi bố, vừa khóc lớn vừa cay đắng than thân trách phận. Quần áo lếch thếch, mắt sưng húp, Ajzada cứ vật vã khóc than: Nào số phận hẩm hiu, chẳng ai thông cảm và chỉ bảo cho chị ta. Nào là chị ta khổ từ lúc trẻ, vớ phải thằng chồng là một con sâu rượu. Con cái thì suốt ngày lê la trên khu ga không ai chăm nom dạy bảo, cho nên hóa thành hư đốn, không chừng nay mai sẽ trở thành những tên ăn cướp trên tàu. Thằng con lớn lại tập tành rượu chè, công an đã tới nhắc nhở, cảnh cáo, cứ điệu này thì chẳng mấy chốc sẽ phải ra tòa, nhưng chị ta có thể làm gì được, khi một nách những sáu con! Thằng bố chúng nó thì bỏ mặc tất cả.

Đúng là bỏ mặc tất cả, anh ta cứ ngồi cúi đầu, mặt buồn xo, dáng đờ đẫn, lặng lẽ rít những điếu thuốc khét lẹt. Dẫu sau anh cũng đã về chịu tang bố vợ. Đối với anh, đây không phải lần đầu. Anh biết: mụ đàn bà làm ầm ĩ một lát rồi sẽ mệt… Nhưng vừa lúc ấy cậu em vợ - Shabitzhan - xen vào. Thế là bắt đầu rắc rối. Shabitzhan lên lớp bà chị: Đời thuở nhà ai lại làm như thế, chị về đây mai táng cha hay bôi nhọ bản thân mình? Phải chăng một người con gái Kazak xưa nay vẫn khóc ông bố đáng kính của mình như vậy? Chẳng phải lời than khóc vĩ đại của những phụ nữ Kazak đã trở thành các bài ca, các huyền thoại cho con cháu hằng mấy trăm năm đó sao? Còn kiểu khóc của chị chỉ làm cho mọi người khóc theo sướt mướt, chứ có làm cho người chết sống lại được đâu. Ngày trước, phụ nữ người ta khóc ra khóc, để ca tụng người chết và mọi ưu điểm của người đó. Còn chị? Ở đây chị cứ than vãn rên rỉ, như thể chị quá ư khổ sở ở trên đời không bằng!

Xem chừng Ajzada không chờ nghe những lời nói đó. Cho nên chị ta gào to hơn, giận dỗi hơn. À, mày ra cái vẻ thông thái, giỏi giang gớm chửa? Trước hết, mày hãy dạy con vợ mày! Mày hãy đem những lời hoa mỹ ấy đến giảng giải cho con vợ mày đã! Tại sao nó không về đây mà thở ra những lời than khóc vĩ đại cho chúng tao nghe! Sao nó không về nhà làm ma bố chồng, để bù lại phần nào việc chúng mày - đồ quỷ cái và đồ liếm gót ti tiện - đã cướp sạch tài sản của bố! Chồng tao tuy nghiện ngập thật đấy, nhưng anh ấy đã về đây, còn con vợ khôn ngoan thông thái của mày thì đâu?

Shabitzhan bèn quát lớn với ông anh rể để anh ta bắt vợ câm miệng. Vậy là anh ta đột nhiên nổi xung, lao tới bóp cổ Shabitzhan…

Bà con vất vả lắm mới can được hai anh em nhà ấy, tất cả đều cảm thấy khó chịu và xấu hổ. Edigej rất ngao ngán, bác đã biết tư cách của chúng, nhưng không ngờ tới mức này. Bác nghiêm nghị cảnh cáo: Nếu các anh không tôn trọng nhau thì ít ra cũng đừng làm nhục hương hồn người bố; nếu không, tôi sẽ nhất quyết không cho phép các anh ở đây thêm một phút nào nữa….

Vậy là trước khi mai táng đã xảy ra câu chuyện không hay như vậy, Edigei rầu cả ruột. Cặp lông mày nhíu lại trên gốc mũi, bác lại bị ám ảnh bởi câu hỏi - tại sao chúng nó, con của Kazangap lại đổ đốn ra như thế, tại sao chúng nó lại đến nông nổi ấy? Lẽ nào bác và Kazangap đã mơ ước như vậy hồi chở chúng nó đến trường nội trú Kumbel, dưới trời oi nồng hay tuyết giá, để chúng học hành nên người, để chúng khỏi bị chết cóng ở một cái ga xép nào đó giữa vùng Sarozek, để về sau chúng không phải nguyền rủa số phận và trách cứ bố mẹ đã không lo lắng cho chúng? Thế nhưng kết cục ngược lại hoàn toàn. Và tại sao, cái gì đã cản trở chúng trở thành những con người có lương tâm.

Thế là Edilbaj-Cò Hương lại gỡ bí giùm bác vào buổi tối hôm ấy. Edilbaj tỏ ra khá nhạy bén, bác ta hiểu rất rõ Edigej. Con của người chết xưa nay bao giờ cũng là nhân vật chủ yếu trong dịp tang lễ, sự đời là thế, và không thể đẩy chúng ra, đuổi chúng đi, dù chúng trơ trẽn, vô tích sự đến mức nào. Để xoa dịu cái trò cãi lộn đáng xấu hổ giữa hai chị em vừa rồi, Edilbaj mời tất cả nam giới tới nhà mình. Tại sao chúng ta lại cứ ngồi ngoài sân đếm sao trên trời - bác ta nói - mời bà con sang nhà tôi uống trà đã nào…

Ở nhà Edilbaj, Edigej như rơi vào một thế giới khác. Trước kia bác vẫn thường ghé sang đây chơi và lần nào bác cũng hài lòng, vui mừng cho gia đình Edilbaj. Hôm nay bác càng muốn ở đây lâu hơn, nhu cầu đó xuất phát từ chỗ bác cần phải phục hồi những sức lực đã mất.

Edilbaj cũng là công nhân đường sắt như những người khác, lương chẳng hơn ai, sống cũng như tất cả mọi người, trong một nửa ngôi nhà lắp ghép có hai phòng và ngăn bếp; nhưng ở đây chan hòa một không khí khác hẳn - mọi thứ đều sạch sẽ, ngăn nắp, ấm cúng. Cũng là món nước trà như ở các nhà khác, nhưng trong những cái cốc ở nhà Edilbaj, Edigej tưởng như là mật ong trong suốt. Vợ Edilbaj vừa đẹp người, vừa đảm đang, các con thì ngoan ngoãn… Họ sẽ sống ở Sarozek một thời gian nữa, rồi đi nơi khác, Edigej nghĩ thầm như vậy. Sẽ rất tiếc, nếu họ rời khỏi nơi đây…

Bỏ dép ở ngoài thềm. Edigej bước vào nhà, ngồi xếp chân bằng tròn, và lần đầu tiên trong ngày nay, bác cảm thấy vừa mệt vừa đói. Tựa lưng vào vách gỗ, bác im lặng. Những người khách còn lại, quây quanh chiếc bàn tròn nho nhỏ và thấp gần sát đất, trò chuyện khe khẽ với nhau…

Câu chuyện thật sự lạ lùng diễn ra sau đó. Edigej đã quên con tàu vũ trụ vừa được phóng đi hồi đêm, bây giờ những người am hiểu đang nói những điều khiến bác phải suy nghĩ. Chẳng phải bác phát hiện ra điều gì mới lạ đối với mình, mà là bác ngạc nhiên trước những lập luận của mọi người và vốn hiểu biết quá ít ỏi của mình về vấn đề đó. Song bác không tự trách mình, tất cả những chuyến bay vũ trụ ấy, những chuyến bay khiến mọi người chú ý ấy, đối với bác quá xa vời gần như là thần diệu. Bởi vậy, thái độ của bác là tôn kính pha lẫn đề phòng, như thể đứng trước một sức mạnh vô hình, tốt nhất là bác chỉ được quyền biết thế thôi. Tuy nhiên, cảnh tượng con tàu cất cánh bay lên vũ trụ đã khiến bác sửng sốt. Những người ngồi kia đang bàn luận chính về sự kiện ấy.

Đầu tiên họ ngồi uống subat - một thứ nước chắt từ sữa lạc đà. Món subat ngon tuyệt, mát lạnh, nhiều bọt, hơi say. Cánh thợ sửa đường qua đây rất ưa món này, thường nốc căng bụng và gọi nó là bia Sarozek. Thêm vào món nhắm nóng sốt, ở nhà Edilbaj còn có rượu vốtca. Mọi bữa thì Edigej-Bão Tuyết sẵn sàng nhập cuộc, nhưng lần này bác từ chối và bằng thái độ đó, muốn tỏ cho những người khác hiểu rằng bác khuyên họ đừng nên chè chén, vì ngày mai sẽ phải đi xa vất vả. Bác lo lắng khi thấy mọi người, nhất là Shabitzhan lại uống vốtca pha lẫn subat. Subat pha với vốtca hợp lắm, y như hai con ngựa hay được thắng chung một xe, uống vào người cứ lâng lâng. Nhưng hôm nay điều đó bất lợi, chẳng lẽ ra lệnh cho mọi người đừng uống? Họ phải biết giữ chừng mực chứ. Kể cũng yên tâm, vì vợ chồng của Ajzada chưa động đến vốtca. Bợm nhậu vớ được vốtca thì phải biết, song anh ta chỉ uống subat. Chắc anh ta hiểu rằng làm một thằng say bí tỉ, trong ngày đưa tang bố vợ là điều quá đáng. Nhưng liệu anh ta tự kềm chế được bao lâu? Chỉ có trời biết.

Họ cứ ngồi như thế, nói đủ thứ chuyện. Bỗng Edilbaj vừa rót subat mời khách - tay bác ta dài ghê gớm, mỗi bận duỗi ra, gập vào cứ như hai cái gàu máy xúc - vừa chìa chiếc cốc cho Edigej ở phía bên kia bàn vừa nói:

- Bác Edigej này, đêm qua lúc trực thay cho bác, bác vừa đi một quãng, tôi có thấy một cái gì chuyển động rung rung trên trời, khiến người tôi chao đảo. Nhìn lên, tôi thấy một chiếc tên lửa vừa được phóng lên từ sân bay vũ trụ! To quá! To ghê gớm! Bác nhìn thấy chứ?

- Tất nhiên! Tôi há hốc cả miệng ra! Ghê thật! Khối lửa cháy đùng đùng và cứ thế lao lên mỗi lúc một cao, cao mãi! Khiếp quá! Tôi đã sống ở đây bao năm, chưa từng gặp cảnh đó.

- Thì tôi cũng mới được tận mắt chứng kiến lần đầu - Edilbaj thú nhận.

- Nếu chú mới thấy lần đầu, thì bọn tôi làm sao thấy được - Shabitzhan pha trò một chút để diễu vóc dáng của Edilbaj.

Edilbaj-Cò Hương cười khẩy:

- Tôi là cái thớ gì. Tôi nhìn và không tin ở mắt mình nữa: cả một khối lửa kêu ù ù trên cao! Tôi nghĩ: Chắc lại có người bay vào vũ trụ. Chúc thượng lộ bình an nhé! Còn mình phải xoay núm bắt sóng cái đài bán dẫn thật nhanh - bao giờ tôi cũng mang theo nó bên mình. Tôi nghĩ chắc lúc này người ta đang thông báo trên đài phát thanh, thường người ta vẫn truyền đi ngay từ sân bay vũ trụ. Và giọng phát thanh viên cũng hồ hởi như đang phát biểu tại cuộc mít tinh vậy. Hồi hộp quá đi mất! Bác Edigej ạ, tôi chỉ muốn biết thật sớm xem ai bay, tôi được nhìn thấy ai đang bay, nhưng hóa ra không phải như vậy.

- Tại sao? - Shabitzhan ngạc nhiên cướp lời, cặp lông mày dướn lên ra vẻ quan trọng. Anh ta đã chếnh choáng say, mặt đỏ gay, mồ hôi lấm tấm.

- Tôi chả biết, người ta không báo tin gì hết. Tôi bắt sóng đài ‘Hải Đăng’ và chờ mãi, nhưng người ta chẳng đưa tin gì cả.

- Không thể thế được! Chắc phải có chuyện gì đó! - Shabitzhan nghi ngờ, và anh ta nhấp thêm một ngụm vốtca với subat. - Mỗi chuyến bay vào vũ trụ là một sự kiện lớn trên thế giới… Chú hiểu không? Đó là uy tín khoa học và chính trị của chúng ta.

- Tôi chả biết tại sao. Tôi cố nghe hết bản tin cuối cùng, thậm chí cả mục điểm báo…

- Hừm! - Shabitzhan lắc đầu. - Giá tôi ở trên tỉnh, cơ quan của tôi, tất nhiên đã biết! Tiếc thật! Có lẽ đã có chuyện gì chăng?

- Ai mà biết đã có chuyện gì hay không, riêng tôi thật lấy làm tiếc - Edilbaj-Cò Hương thật thà nói. - Đối với tôi, con tàu ấy như chở người phi công vũ trụ của riêng tôi. Nó đã cất cánh trước mắt tôi. Tôi nghĩ, không chừng người phi công là một chàng trai ở vùng ta cũng nên! Thế thì sướng lắm. Rồi sẽ được gặp anh ấy ở đâu đó, tha hồ vui…

Shabitzhan vội ngắt lời bác ta, hăng lên vì một ước đoán nào đó:

- Á à, tôi hiểu rồi! Đấy là một con tàu không có người lái. Một chuyến bay thí nghiệm thôi.

- Nghĩa là thế nào? - Edilbaj liếc sang hỏi.

- Theo phương án thí nghiệm. Chú hiểu không, nghĩa là bay thử. Con tàu không người lái bay lên ghép nối với con tàu khác hoặc đi vào quỹ đạo, và hiện nay chưa biết kết quả ra sao. Nếu đạt kết quả mỹ mãn, người ta sẽ đưa tin trên đài phát thanh và báo chí. Nếu thất bại, có thể sẽ không đưa tin. Biết nhiều quá để làm gì?

Edilbaj thất vọng gãi gãi trán:

- Thế mà tôi cứ ngỡ trong đó có người đấy.

Tất cả im lặng và hơi buồn trước lời giải thích của Shabitzhan, và có lẽ câu chuyện đã chấm dứt ở đó, nếu như chính Edigej không vô tình gợi ra một ý mới:

- Các gighit[4] ơi. Như vậy, theo chỗ tôi hiểu, thì đó là một tên lửa không có người lái phải không? Thế thì ai điều khiển nó bay lên vũ trụ?

- Còn ai nữa? - Shabitzhan vung hai tay ngạc nhiên và đắc thắng nhìn Edigej dốt nát. - Chú ơi, ở trên ấy mọi việc đều do radio điều khiển. Theo mệnh lệnh phát ra từ trung tâm điều khiển dưới Trái Đất. Chú hiểu chưa? Thậm chí dù trên con tàu có phi công vũ trụ đi nữa, tên lửa vẫn bay theo sự hướng dẫn của radio. Còn phi công muốn tự quyết định điều gì thì phải xin phép. Koketai[5] thân mến ơi, chuyện đó phức tạp vô cùng, không giống như việc cưỡi con Karanar đâu…

- À ra thế, vậy cậu kể đi - Edigej buột miệng nói.

Edigej-Bão Tuyết chưa biết nguyên lý điều khiển bằng radio như thế nào. Theo quan niệm của bác, radio là những từ ngữ, những âm thanh được truyền đi trên không trung từ những khoảng cách xa. Nhưng làm sao có thể điều khiển một vật theo kiểu đó nhỉ? Nếu bên trong vật ấy có người thì đã đành, người ấy sẽ thực hiện các chỉ thị: hãy làm thế này, thế nọ. Edigej muốn hỏi kỹ tất cả những chuyện đó, nhưng bác nghĩ rằng chẳng nên hỏi nữa. Trong thâm tâm, không hiểu sao bác hơi khó chịu, nên im lặng. Thằng Shabitzhan nói năng ra vẻ bề trên quá, ra cái điều các bác các chú chả hiểu gì ráo, lại dám coi tôi là đứa vô tích sự, lão anh rể nghiện ngập còn định bóp chết tôi, trong khi tôi hiểu biết hơn tất cả các vị ở đây.

“Thây kệ mày - Edigej nghĩ bụng, - chúng tao đã dạy mày cả đời là cốt cho mày hiểu biết. Ít ra mày phải biết được cái gì đó nhiều hơn chúng tao, những người ít học chứ”. Rồi Edigej còn nghĩ thêm: “Nếu một kẻ như nó mà cầm quyền, thì chắc nó sẽ lấn lướt hết thảy mọi người, sẽ bắt cấp dưới phải làm ra vẻ am tường đủ chuyện, không chịu nổi những ai kém cỏi. Bây giờ nó mới chỉ làm chân chạy giấy mà đã muốn mọi người, dù là bà con ở xứ Sarozek hẻo lánh này phải trọng nể nó”.

Còn Shabitzhan thì quả có đặt cho mình mục đích lấn át, làm cho bà con Boranly phải sửng sốt, qua đó đề cao giá trị anh ta sau vụ cãi lộn nhục nhã vừa rồi với chị gái và anh rể. Anh ta luôn miệng huyên thuyên để đánh lạc hướng. Anh ta liền kể những chuyện thần kỳ khó tin, những thành tựu khoa học lạ lùng, chốc chốc lại nhấp một ngụm vốtca với subat. Thứ chất cay ấy làm cho anh ta mỗi lúc một hăng thêm và bắt đầu bịa ra những chuyện mà bà con Boranly chất phác chẳng hiểu đâu vào đâu nữa.

- Các chú nghĩ mà xem - Shabitzhan đảo cặp mắt kính lấp lánh nhìn khắp mọi người ngồi quanh. - Chúng ta, nếu am hiểu, chúng ta là những người sung sướng nhất trong lịch sử nhân loại. Như chú Edigej kia, bây giờ chú là người cao tuổi nhất ở đây. Chú biết ngày trước và hiện nay khác nhau thế nào, ý cháu muốn nói là trước đây người ta tin vào Thượng Đế. Thời cổ đại Hy Lạp các vị thần hình như sống trên núi Olemp, nhưng thần thánh quái gì họ? Một bọn ngu dốt thì có. Họ đã làm được gì nào? Họ không liên kết được với nhau, không thay đổi nổi lối sống của loài người, và họ cũng chẳng nghĩ đến chuyện thay đổi. Chẳng có thần linh quái nào hết, toàn là thần thoại, cổ tích thôi. Còn các vị thần thời nay, họ đang sống ngay bên cạnh chúng ta, ở ngay vùng này, tại sân bay vũ trụ Sarozek. Và đó là niềm tự hào của chúng ta trước toàn thế giới. Không ai trong số chúng ta nhìn thấy họ, biết mặt họ, và cũng không nên cho phép bất cứ người dân quái nào cũng được gặp họ mà bắt tay hỏi thăm sức khoẻ. Nhưng họ là những vị thần thực sự! Chú Edigej vừa kinh ngạc về chuyện họ điều khiển con tàu vũ trụ bằng radio. Đó là việc vặt, đã qua giai đoạn ấy rồi! Giai đoạn máy móc hoạt động theo chương trình. Sắp sang thời kỳ sẽ điều khiển con người bằng radio, như đã từng điều khiển máy móc tự động kia. Điều khiển con người nhé, các chú hiểu chưa, hết thảy, từ già chí trẻ. Đã có các dữ kiện khoa học. Khoa học đã đạt được tới đỉnh cao ấy, xuất phát từ những lợi ích cao cả.

- Hượm đã, hượm đã, lợi ích cao cả là cái quái gì - Edilbaj ngắt lời anh ta. - Cậu thử nói xem nào, tôi nghe chưa ra. Theo cậu, mọi người chúng ta đều phải đeo kè kè bên mình một cái máy thu, giống như chiếc đài bán dẫn để nghe lệnh? Ai cũng vậy, chỗ nào cũng vậy ư?

- Chú này mới ngớ ngẩn chứ! Ai bảo thế? Loại máy thu ấy chỉ là trò vặt vãnh, là đồ chơi của con nít! Chẳng ai phải đeo kè kè cái gì bên mình hết! Cứ ở truồng mà đi cũng được. Đã có những sóng vô tuyến vô hình - người ta gọi là những dòng điện sinh học - thường xuyên tác động đến chú, đến ý thức của chú, lúc ấy chú định né tránh vào đâu được nào?

- Ghê gớm đến thế à?

- Chứ sao! Người ta sẽ phải làm mọi việc theo chương trình phát đi từ trung tâm. Chú cứ tưởng chú sống và hành động theo ý muốn của chú, nhưng thực ra là theo chỉ thị của cấp trên. Và tất cả phải theo một trình tự nghiêm ngặt. Nếu muốn chú hát - phát tín hiệu - thế là chú hát. Nếu thích chú nhảy múa - tín hiệu - thế là chú nhảy múa. Nếu cần chú làm việc - thế là chú làm việc, mà làm ra làm nhé! Trộm cắp, lưu manh, tội ác… tất cả sẽ bị lãng quên, chỉ còn đọc thấy trong những cuốn sách cũ thôi. Bởi vì tất cả mọi thứ sẽ đều được dự kiến trong hành vi của con người - mọi hành động, mọi ý nghĩ, mọi nguyện vọng. Chẳng hạn hiện nay trên thế giới có sự bùng nổ dân số, nghĩa là người ta đẻ ra nhiều quá, chả biết nuôi bằng cái gì. Phải làm sao đây? Phải giảm tỉ lệ sinh đẻ, các vị sẽ chỉ nằm với vợ khi nào có tín hiệu ra lệnh, xuất phát từ lợi ích của xã hội.

- Lợi ích cao cả chứ? - Edilbaj-Cò Hương hỏi thêm với chút ác ý.

- Đúng thế, lợi ích của nhà nước trên hết.

- Nếu bỏ qua các thứ lợi ích ấy, tôi cứ muốn ngủ với vợ thì sao?

- Chú Edilbaj thân mến ơi, không xong đâu. Chú sẽ không nảy ra ý muốn như vậy, dù có chìa ra cho chú một giai nhân tuyệt sắc, chú cũng chả buồn ngó ngàng. Bởi vì người ta đã phát dòng điện sinh học mang dấu âm rồi, thành thử vụ đó sẽ đâu vào đấy. Chú cứ tin tôi đi, hoặc lấy việc quân sự làm ví dụ. Tất cả sẽ theo tín hiệu, cần nhảy vào lửa sẽ có vị nhảy vào lửa, cần nhảy dù sẽ có người nhảy dù ngay tắp lự, cần ôm mìn nguyên tử lao vào gầm xe tăng, xin mời, sẽ có anh lao liền. Các vị sẽ hỏi tôi tại sao? Tại vì đã phát dòng điện sinh học dũng cảm - thế là người ta chả còn biết sợ là gì. Thế đó!

- Ái chà, phịa ra phịa! Dóc đến thế là cùng! Người ta dạy cậu những gì trong ngần ấy năm? - Edilbaj ngạc nhiên thật sự.

Những người ngồi quanh cười, cựa quậy, lắc đầu, ý nói anh chàng ba hoa chích chòe quá mức, song họ vẫn tiếp tục nghe - nó kể những chuyện tuy vớ vẩn nhưng thú vị, chưa nghe bao giờ. Ai cũng hiểu rằng Shabitzhan đã say mèm, ngăn cản nó làm gì, mặc cho nó tán. Đó đây đã có người nghe nó kể về vài điều, thật giả đến đâu chẳng cần suy xét cho mệt óc.

Edigej bỗng hoảng sợ thật sự - không phải tự dưng cái thằng bẻm mép lại khua môi như thế, hẳn nó đã đọc hay nghe lỏm ở đâu đó những chuyện kia, bởi cái gì nó cũng biết qua quít, chẳng hiểu điều gì đến nơi đến chốn. Sự đời sẽ ra sao, nếu quả thực có những kẻ, hơn nữa lại là những vị học giả tiếng tăm, khao khát điều khiển mọi người hệt như họ là những vị thần…?

Còn Shabitzhan vẫn cứ ba hoa không dứt. Cặp mắt dưới hai tròng kính đổ mồ hôi, giãn rộng như mắt mèo trong bóng tối, anh ta vẫn cứ luôn miệng nhấp vốtca và subat. Lúc này anh ta đang vung tay kể về cái Tam Giác Quỷ nào đấy trên đại dương, nơi những chiếc tàu biển biệt tích một cách bí hiểm và những chiếc phi cơ bay qua vùng đó rơi tõm vào đâu không rõ.

- Ở trên tỉnh có một anh cố tìm cách đi công tác ra nước ngoài, anh ta nằn nì mãi và thế là được đi. Những vị khác bị gạt ra, và anh ta bay qua đại dương, định tới Urugoay hoặc Paragoay gì đó. Nhưng khi phi cơ bay đúng phía trên Tam Giác Quỷ thì nó biến mất, anh ta mất tăm, thế là rồi đời! Còn những người bạn đã nhường chuyến đi cho anh ta, những người bị anh ta gạt ra, thì nhờ vậy mà vẫn được sống đàng hoàng trên đất nước mình và khỏe nhơn nhơn! Nào hãy cạn chén, mừng sức khỏe của chúng ta!

“Lại thế nữa! - Edigej chán nản nghĩ thầm. - Nó sắp nhắc đến đề tài quen miệng của nó đấy. Tai hoạ! Hễ cứ rượu vào là như xe không phanh!”

- Xin hãy cạn chén mừng sức khỏe của chúng ta! - Shabitzhan nhìn mọi người bằng cặp mắt đờ đẫn, mờ đục, nhưng vẫn cố tạo ra vẻ mặt quan trọng, đầy ý nghĩa. - Sức khỏe của chúng ta là tài sản lớn nhất của đất nước. Sức khỏe của chúng ta là báu vật của quốc gia. Thế đấy! Chúng ta đâu phải là những kẻ bình thường, chúng ta là những nhân vật quốc gia! Và tôi còn muốn nói rằng…

Edigej-Bão Tuyết đứng phắt dậy, không chờ Shabitzhan nói nốt lời chúc rượu, bác bước ra ngoài. Vấp phải vật gì đó kêu loảng xoảng ngoài thềm, có lẽ là chiếc xô, bác xỏ chân vào đôi dép đã lạnh ngắt vì sương đêm, rồi đi về nhà, lòng đầy tức giận. “Ôi, bác Kazangap tội nghiệp! - bác cắn râu, khẽ rên rỉ vì giận dữ. - Chết cũng chả được yên, khổ thân bác! Thằng con bác cứ ngồi nốc rượu như khi dự liên hoan, bất chấp tất cả! Nó nghĩ ra cái lời chúc rượu quỷ quái về sức khỏe của đất nước ấy, để lần nào cũng nhai đi nhai lại ấy. Lạy trời ngày mai mọi nghi lễ đều hoàn tất, chúng tôi sẽ mai táng bác, làm bữa cúng xong nó sẽ không được phép lai vãng tới đây nữa, chúng tôi sẽ được giải thoát khỏi nó, vì ở nơi này chẳng ai cần nó và nó cũng chẳng cần đến ai”.

Hóa ra mọi người đã ngồi chơi khá lâu ở nhà Edilbaj-Cò Hương. Đã quá nửa đêm, Edigej hít đầy lồng ngực không khí lạnh giá của thảo nguyên Sarozek về đêm. Điệu này thời tiết ngày mai sẽ sáng sủa và khô ráo, hơi nóng như mọi khi. Bao giờ cũng vậy, ban ngày trời nóng, đêm thì lạnh cóng. Vì thế mà bốn phía thảo nguyên quanh đây đều khô cằn, cây cỏ khó bề thích nghi. Ban ngày chúng hướng về phía mặt trời, xòe lá, khát nước, còn đêm thì co lại rét mướt. Những cây khỏe mới sống nổi, thường là loại cây gai, ngải cứu, chủ yếu bám rễ vào các rãnh, có thể cắt chúng làm cỏ khô.

Nhà địa chất học Elizarov, một người bạn lâu năm của Edigej-Bão Tuyết vẫn kể, rằng ngày xưa có người đã vẽ một bức tranh về vùng này, rằng có thời nơi đây cỏ mọc um tùm, khí hậu khác hẳn, những đàn súc vật lang thang khắp thảo nguyên. Thời kỳ ấy chắc đã qua lâu rồi, có lẽ từ trước khi lũ rợ Choang Choang dữ tợn tràn đến vùng này. Lũ rợ ấy nay chẳng còn dấu vết, nếu không, làm sao vùng này chỉ có ngần ấy người… Chẳng phải bỗng dưng vô cớ Elizarov bảo rằng Sarozek là cuốn sách bị quên lãng về lịch sử thảo nguyên…. Ông cho rằng lịch sử nghĩa địa Ana-Bejit cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên. Một số người chỉ công nhận những gì được viết trên giấy mới là lịch sử, nhưng cái thời chưa có sách ấy thì không được tính đến hay sao…?

Khi lắng nghe tiếng xe lửa chạy qua ga, một sự liên tưởng lạ lùng nào đó thường đưa Edigej về với các cơn bão vùng biển Aral, nơi bác đã sinh ra và lớn lên. Chính Kazangap cũng là dân Kazak vùng Aral, vì thế mà hai người đã thân nhau ở ga này và thường nhắc nhở đến vùng biển quê hương. Trước khi Kazangap mất không lâu, hồi mùa xuân, hai người đã cùng về thăm Aral. Hóa ra ông già đi một chuyến dối già, nhưng không đi thì hơn, đi chỉ thêm nặng lòng. Biển đang cạn dần, bị thu hẹp ghê gớm. Họ phải đi xe hàng chục cây số qua những nơi trước đây là đáy biển, nay toàn đất sét, mới tới được mép nước. Tại đó, Kazangap đã nói: “Trước là biển Aral, nay chỉ thấy toàn đất. Nước biển còn cạn khô, nói chi đến cuộc đời người”. Hôm ấy ông già còn bảo: “Chú hãy chôn tôi ở nghĩa địa Ana-Bejit, chú Edigej ạ. Tôi gặp biển lần này là lần cuối cùng đây!”.

Edigej-Bão Tuyết dùng tay áo quệt nước mắt, ho vài tiếng cho cổ khỏi nghẹn, rồi bước vào ngôi nhà đất của Kazangap, nơi Ajzada, Ukubala và cánh phụ nữ đang lo nốt công việc tang gia. Những phụ nữ Boranly khi người này, lúc người khác, ghé tới đây chia buồn hoặc giúp một tay nếu cần.

Edigej dừng chân cạnh một gốc cây cong queo được chôn xuống đất, nơi buộc con Karanar-Bão Tuyết đã thắng bộ yên cương, gọn đẹp tươm tất. Dưới ánh trăng, con lạc đà trông cao lớn, uy nghi như một con voi, không dừng được, Edigej khẽ vỗ vào sườn nó:

- Mày khỏe lắm!

Đến ngưỡng cửa, không hiểu sao Edigej chợt nhớ lúc con cáo chạy tới sát đường xe lửa. Không dám, bác từ bỏ ý định ném đá giết nó, rồi sau đó, trên đường về nhà, bác đã nhìn thấy một con tàu lửa cất cánh từ sân bay vũ trụ, bay vút lên không gian đen ngòm…

CHÚ THÍCH

[3] Versta: dặm, đơn vị đo lường cũ ở Nga, bằng 0,06 km.

[4] Gighit: người cưỡi ngựa giỏi ở vùng núi Kapkaz.

[5] Koketai: lối xưng hô thân mật, tỏ ra mình là bề trên của người được tiếp chuyện.