Chương 12
Câu chuyện về gã Tansykbaev mắt cú vọ ấy đầu đuôi thế này.
Cuối xuân năm một ngàn chín trăm năm mươi sáu, đoạn đầu máy ga Kumbel có tổ chức một cuộc mít-tinh lớn mới toàn thể cán bộ công nhân viên đến dự. Tất cả công nhân, kỹ sư đường sắt, từ khắp các nhà ga lớn nhỏ quanh vùng đều nô nức kéo về. Chỉ những ai hôm ấy phải trực trên các tuyến đường mới vắng mặt. Trong đời mình, Edigej-Bão Tuyết đã từng dự không biết bao nhiêu cuộc hội họp, nhưng anh chưa bao giờ chứng kiến một buổi mít-tinh đáng ghi nhớ như thế.
Cuộc mít-tinh được tổ chức ngay tại phân xưởng sửa chữa đầu máy. Người đông nghẹt đến nỗi những ai chậm chân phải trèo lên tận rầm sát mái nhà mới có chỗ ngồi. Nhưng điều quan trọng nhất là những lời phát biểu! Tên Berya bị lột trần chân tướng. Ai cũng lên án nghiêm túc, cũng phỉ nhổ cái tên đao phủ đáng nguyền rủa ấy không chút thương tiếc! Mãi đến chiều tối, người ta vẫn còn tiếp tục thi nhau lên diễn đàn. Lần này, cả anh em công nhân đang làm việc tại đoạn đầu máy cũng lên phát biểu. Không một người nào bỏ ra về nửa chừng, ai cũng cứ như bị đóng đinh vào ghế. Cả gian nhà rộng thênh thang râm ran không ngớt giọng nói lao xao của những người tham dự mít-tinh, như cả một khu rừng đang xào xạc gió. Edigej còn nhớ rõ một lời nhận xét bằng tiếng Nga của ai đó đang ngồi cạnh anh: "Hệt như là biển cả trước cơn bão lớn". Quả đúng thế thật. Tim anh đập liên hồi trong lồng ngực, ở ngoài mặt trận, trước lúc tấn công, tim cũng đập gấp gáp như thế. Và khát kinh khủng, cổ khô cháy. Nhưng người đông nghịt thế này, lấy đâu ra nước uống cho đủ? Khát đến mấy cũng đành chịu. Giờ giải lao Edigej chạy ngay đến gặp Chernov, trước làm trưởng ga, nay có chân trong đảng ủy đoạn đầu máy. Ban nãy, ông ngồi trên ghế chủ tịch đoàn.
- Anh Andrej Petrovich ạ, tôi muốn lên phát biểu mấy lời, được chứ?
- Muốn thì mời lên, ngại gì!
- Muốn thì tôi muốn quá đi rồi! Nhưng trước tiên, tôi tính gặp anh hỏi ý kiến đã. Chắc anh còn nhớ cậu Kuttybaev hồi nọ làm ở chỗ bọn tôi chứ nhỉ? Abutalip Kuttybaev! Sau, cậu ấy bị một lão thanh tra gửi thư tố giác là đã viết hồi ký về nước Nam Tư. Chả là hồi chiến tranh, Abutalip có tham gia du kích bên ấy. Gã thanh tra kia còn tố giác đủ thứ nữa. Thế là đám tay chân của Berya liền ập đến bắt cậu ấy đi. Ít lâu sau cậu ấy chết trong tù chẳng hề được xét xử gì cả. Anh nhớ rồi chứ?
- Tôi nhớ ra rồi. Chính vợ anh ấy đã đến gặp tôi để nhận giấy báo tử mà.
- Đúng đấy! Được ít lâu, chị vợ đưa hai đứa con đi nơi khác. Hôm nay nghe anh em phát biểu, tôi nhớ ngay đến vụ này. Ta với Nam Tư vẫn hữu nghị với nhau - chứ có bất đồng gì đâu! Thế vì lẽ gì những người vô tội lại phải lâm vào cảnh khốn khổ? Hai thằng con Abutalip giờ hẳn đã lớn rồi, phải cho chúng học hành tử tế. Những nỗi oan ức kia phải được giải tỏa. Để từ nay không ai dám khinh thường mẹ con họ nữa. Vì chỉ riêng chuyện mồ côi bố, hai thằng bé cũng đã đủ cay cực lắm rồi.
- Gượm đã, Edigej. Thế anh muốn phát biểu về chính chuyện ấy chứ gì?
- Vâng, chính chuyện ấy.
- Nầy, thế tên họ lão thanh tra nọ là gì, hả?
- Tôi không biết, nhưng sẽ hỏi được thôi. Nói của đáng tội, tôi chưa gặp mặt hắn bao giờ.
- Thế hỏi ai bây giờ? Với lại anh có giữ được trong tay một bằng chứng đích xác gì chứng tỏ là chính hắn đã viết thư tố giác Abutalip không?
- Lúc này ai còn cần đến những thứ ấy nữa?
- Phải có bằng chứng cụ thể mới được, anh Bão Tuyết thân mến ạ. Ngộ nhỡ không phải thế thì sao? Đây đâu phải chuyện đùa, đúng chứ? Edigej-Bão Tuyết ạ, vì anh đã hỏi, nên tôi xin góp mấy ý kiến thế này. Anh nên viết một bức thư, trình bày rõ mọi chuyện, rồi gửi lên Alma-Ata. Phải viết thật tỉ mỉ, kể hết ngọn ngành, và gửi thẳng cho ban chấp hành trung ương nước cộng hòa. Để trên ấy có cơ sở điều tra đến đầu đến đũa. Sẽ chóng vánh thôi, Edigej ạ. Đảng sẽ bắt tay ngay vào việc. Rồi anh xem!
Cùng với toàn thể những người dự mít-tinh, Edigej đã đồng thanh hô to hai câu khẩu hiệu; giọng rất đanh thép: "Vinh quang thay đảng ta! Nhiệt liệt ủng hộ đường lối của đảng!" Cuối buổi mít-tinh có ai đó đã cất tiếng hát bài "Quốc tế ca". Tức thì có mấy người nữa hòa theo, và trong chớp mắt, toàn thể những người có mặt đều đồng thanh hát vang bài chính khí ca vĩ đại của mọi thời đại, bài chính khí ca của hết thảy những ai đã từng bị áp bức bao đời. Lòng Edigej dào dạt như sóng biển, một cảm xúc đắc thắng, tự hào, đồng thời pha lẫn chút dư vị đắng cay, về sự thống nhất giữa mình và hết thảy những ai vốn làm nên cái cốt lõi và tinh hoa của Trái Đất. Bài chính khí ca của những người cộng sản, vang lên mỗi lúc một lớn, một cao, bùng cháy trong tim ngọn lửa của đức can trường và lòng quyết tâm dám đứng lên bảo vệ, khẳng định quyền những người được chiến đấu cho hạnh phúc của mọi người. Và vẫn như mọi lần, hễ xúc động mạnh, Edigej lại mơ thấy mình được về với biển Aral. Ở đó, tâm hồn anh như một con hải âu tự do sải cánh bay trên những ngọn sóng bạc đầu - sóng alabash.
Lòng hân hoan, Edigej hối hả trở về nhà. Rồi, vừa uống trà, anh vừa sôi nổi kể lại tỉ mỉ cùng vợ hết thảy những gì đã được chứng kiến tại cuộc mít-tinh. Anh cũng thuật lại cả chuyện anh định lên diễn đàn phát biểu và những câu trả lời của Chernov. Ukubala chăm chú nghe chồng kể, luôn tay rót cho chồng hết chén trà này đến chén trà khác trong ấm samova, còn Edigej cứ uống mãi, uống mãi.
- Khiếp, khéo anh uống hết cả cái ấm trà ba bốn lít này mất! - chị kinh ngạc, cười phá lên.
- Em biết đấy, hôm nay trong cuộc mít-tinh chẳng hiểu sao anh thấy khát ghê quá. Anh thấy hồi hộp lạ. Người đông khiếp lên được, chẳng còn có chỗ mà lách đi nữa. Mít-tinh xong, anh toan đi tìm nước, uống một bụng thật no cho bõ khát, nhưng nhìn ra đã thấy tàu chạy về hướng ga mình sắp sửa khởi hành. Anh vội vàng trèo ngay lên đầu máy. Tưởng ai, hóa ra lại là người quen: cậu Zhandos, trên ga Togrek-Tam. Anh đã uống bao nhiêu nước ở chỗ cậu ấy rồi đấy chứ. Nếu không chắc em còn phải rót nước mỏi tay!
- Thì anh cứ uống nữa đi, xem ai thua ai nào - Ukubala thốt lên, trong khi tay lại rót thêm ra một chén trà nữa. Được một lát, vợ anh lại nói: - Anh nghĩ đến chúng, đến bọn trẻ nhà Abutalip là đúng đấy, Edigej ạ. Thời thế nếu quả đã thay đổi thật, anh nên mạnh dạn lên để cho hai đứa trẻ mồ côi kia dùng bị ai ức hiếp nữa, tội nghiệp chúng, anh ạ. Viết thư - dĩ nhiên là tốt rồi. Nhưng trong khi chờ thư đến được trên ấy, rồi đợi cho người ta xem xét, tìm hiểu nọ kia, chi bằng anh cứ thu xếp, lên thẳng trên Alma-Ata một chuyến. Để kể hết mọi chuyện cho trên ấy người ta rõ.
- Theo em, thì anh nên đi Alma-Ata, gặp thẳng trung ương à?
- Thế không được sao? Vì công việc kia mà. Hơn nữa, anh Elizarov đã mời anh bao lâu rồi, nhưng anh đã có dịp lên thăm đâu. Thư nào anh ấy cũng không quên cho địa chỉ, phải không nào? Em không đi được rồi, chứ anh đâu có gì trở ngại. Em đi, con cái gửi lại cho ai? Đừng trì hoãn nữa, anh ạ. Cứ xin nghỉ phép ít lâu. Phép năm của anh, từ hồi nào đến giờ, khéo đủ chó anh nghỉ cả trăm năm ấy chứ. Đi một chuyến đi anh, để đến tận nơi, trình bày cặn kẽ với lãnh đạo trên ấy.
Edigej lấy làm ngạc nhiên về trí xét đoán của vợ.
- Em sáng trí thật đấy, Ukubala ạ. Được rồi, để anh tính liệu thêm đã nhé.
- Có gì đâu mà phải tính liệu này? Khéo lại để mất dịp may thì uổng. Làm càng sớm càng hay, anh ạ. Anh Afanasij Ivanovich thế nào cũng sẽ giúp anh. Anh ấy nhất định phải biết rõ anh là nên đến cơ quan nào, nên tìm gặp những ai.
- Vì công việc chung thì anh ấy chẳng nề hà gì đâu.
- Hãy nghe em, đừng trì hoãn nữa. Với lại nhân tiện lên thủ đô; anh tìm mua giúp em vài thứ cho hai đứa trẻ ở nhà. Chỉ nay mai thôi, chúng đã to tướng rồi. Con Saule thì sang thu đã phải đến trường đấy. Chẳng biết có nên gởi nó vào nội trú hay cứ để ở nhà? Anh đã tính đến chuyện đó chưa ấy nhỉ?
- Anh tính đến rồi, tính đến rồi, nhưng còn chưa quyết - Mãi lúc này, Edigej-Bão Tuyết mới sực nhớ tới chuyện đó. Nhưng anh cố không để cho vợ nhận thấy sự ngạc nhiên của mình? Con Saule chóng lớn thật, sắp sửa cắp sách đến trường được rồi.
- Nếu anh đã tính đến rồi thì em chẳng cần phải nhắc nữa - Ukubala nói tiếp - Anh cứ yên tâm mà đi. Lên trên ấy, nhớ kể cho họ biết chúng mình đã cơ cực ra sao trong những năm vừa qua. Thuyết phục họ cố giúp hai thằng bé mồ côi, ít ra cũng minh oan được cho cha chúng, ít nữa rảnh rỗi, anh cũng nên đi thăm mẹ con họ một chuyến: chẳng có gì phiền hà cho ba mẹ con em đâu. Vả lại, em cũng chẳng còn trẻ nữa - Ukubala nói, rồi khẽ thở dài.
Edigej ngước nhìn vợ. Lạ thay, vợ chồng lúc nào cũng ở bên nhau, thế mà anh không hề nhận thấy điều mà lúc này anh trông thấy. Vợ anh dĩ nhiên không còn trẻ nữa, nhưng còn lâu mới đến tuổi già. Tuy vậy, anh vẫn cảm thấy ở Ukubala có một cái gì mới mẻ khác lạ. Anh hiểu ngay ra - đó là sự sáng trí, sự khôn ngoan trong ánh mắt Ukubala và những sợi tóc bạc đầu tiên trên mái đầu của vợ. Tuy chỉ đôi ba, bốn sợi tóc trắng như cước ở hai bên thái dương, nhưng dẫu sao những sợi tóc ấy cũng đã nói lên những năm tháng đã qua đi trong cuộc đời Ukubala...
Hôm sau, Edigej đã có mặt tại ga Kumbel như một hành khách bình thường. Anh phải đi ngược đường một đoạn như thế, vì từ Boranly-Bão Tuyết không có tàu chạy lên Alma-Ata. Vả lại, đằng nào thì cũng phải đánh điện báo tin trước cho Elizarov. Mà chỉ trên Kumbel mới có trạm bưu điện.
Chẳng mấy chốc, chuyến tàu Moskva - Alma-Ata đã vào ga. Edigej lên ngay chuyến đó, và chỉ lát nữa thôi, tàu ấy sẽ lại chạy ngang qua Boranly-Bão Tuyết. Người ta xếp cho anh một chỗ trong toa cu-pê, ở tầng trên, cất hành lý xong, Edigej ra hành lang, đứng bên cửa sổ, để khỏi bỏ lỡ cơ hội được đứng từ trên tàu nhìn xuống ga nhà như một hành khách. Xong đâu đó, anh mới có thể yên tâm trèo lên giường, đánh một giấc, vì còn phải đi hai ngày đường ròng rã nữa. Anh nghĩ bụng thế, tuy rằng đến ngày hôm sau anh đã thấy bứt rứt, không biết trốn đi đâu cho thoát khỏi cảnh ở không bất đắc dĩ trên tàu. Thế nhưng lúc mới lên tàu, anh lại lấy làm lạ không hiểu sao những hành khách khác có thể cuộn tròn trong chăn mà ngáy khì khì trên các giá ngủ?
Tuy nhiên, hôm đầu, nhất là những giờ đầu tiên, Edigej thấy lòng vui như mở hội, thậm chí còn hồi hộp nữa, với cái cảm giác bỡ ngỡ của lần xa nhà dài ngày đầu tiên. Anh đứng bên cửa sổ chồm hẳn nửa người ra ngoài, đội chiếc mũ mới mua ở các quầy bách hóa trong ga để diện trong chuyến đi, khoác thêm bên ngoài chiếc áo sơ-mi sạch sẽ, chiếc ki-ten khá chững chạc, mà Kazangap còn giữ được từ sau chiến tranh đến giờ. Kazangap đã một hai bắt anh phải mặc chiếc áo ki-ten (bác còn bảo phải đeo hết huân chương và huy chương lên ngực nữa, để trông cho được mắt) cùng cái quần ga-li-phê và đi đôi ủng da mềm, loại hảo hạng vẫn trang bị cho sĩ quan quân đội. Edigej-Bão Tuyết rất thích đôi ủng ấy, mặc dù anh rất ít có dịp dùng đến nó. Anh cho rằng khi giao dịch với người ngoài, ai cũng nên có một đôi ủng thật diện, và một chiếc mũ thật mới. Cả hai thứ ấy lúc này anh đều có đủ.
Anh vẫn đứng bên cửa sổ với tâm trạng ấy: Ai đi qua cũng kính nể bước tránh sang bên và ngắm anh từ đầu đến chân, vẻ ngoài của Edigej-Bão Tuyết sở dĩ đáng chú ý chắc hẳn vì phong thái của anh chững chạc và nét mặt lộ vẻ xúc động.
Đoàn tàu mở hết tốc lực, chạy băng băng trên thảo nguyên Sarozek mênh mông đang độ xuân về, như thể cố đuổi theo cái ngấn chân trời trong sáng đang lẩn trốn về phía xa. Bốn bề tựa hồ chẳng còn gì khác ngoài bầu trời lồng lộng và dải thảo nguyên thênh thang rộng mở. Trời đất liền nhau ở tít mãi đằng chân trời, đoàn tàu tốc hành của Edigerj đang mải miết lao nhanh đến đó.
Nhưng kia rồi, những vuông đất của ga Boranly đang chạy nhanh đến với anh. Ở đây, mỗi nếp lượn, trên mặt đất, mỗi hòn đá anh đều thuộc lòng. Tàu càng đến gần Boranly-Bão Tuyết lòng Edigej càng thêm bồn chồn như thể anh đã xa nhà hàng mấy năm trường. Nhà ga kia rồi. Thấp thoáng trước mặt anh cây cột tín hiệu, những nếp nhà bé bỏng, những gian bếp cỏn con, những thanh ray, thanh tà-vẹt xếp đống bên chân nhà kho. Tất cả những thứ ấy như đang hối hả để dồn lại sát bên tuyến đường xe lửa, nằm trải dài giữa thảo nguyên mênh mông, hoang vắng. Edigej chỉ còn kịp nhận thấy hai con bé nhà anh. Hôm nay, hai đứa chắc cũng chạy ra đón tất cả những chuyến tàu khách đi từ Tây sang Đông. Cả Saule lẫn Sharapat đều vẫy tay, nhảy cỡn lên cho bố dễ nom thấy, và sung sướng mỉm cười với những vuông cửa sổ lướt nhanh qua trước mắt. Bím tóc trên đầu hai đứa bé cũng đong đưa theo người đến ngộ nghĩnh, mắt đứa nào đứa nấy sáng rực lên. Theo bản năng, Edigej nhoài hẳn ra ngoài khung cửa, cho gần lũ con hơn, tay vẫy lia lịa, miệng lắp bắp những lời âu yếm, nhưng hai đứa trẻ hoặc là không nhìn thấy, hoặc là không nhận ra bố. Dẫu sao anh cũng thấy hởi lòng hởi dạ vì hai đứa đã chạy ra tiễn bố. Hành khách trên tàu chẳng ai đoán được là anh vừa bỏ lại sau lưng hai đứa con gái nhỏ, nếp nhà của chính anh, cái ga bé bỏng của chính anh! Và càng không thể ngờ rằng mé sau nhà ga, trên thảo nguyên thênh thang, con Karanar danh tiếng của anh đang nhởn nhơ gặm cỏ bên đám anh chị em đồng loại. Ngay từ xa, Edigej đã nhận ra nó và anh chợt thấy mắt cay cay.
Tàu qua thêm mấy ga nữa, Edigej mới lên giường nằm. Anh thiếp đi ngay. Và ngủ một giấc dài thanh thản, trong tiếng ru đều đều của bánh xe vẫn "cành cạch" khe khẽ, mỗi khi lăn qua những mối nối trên đường và tiếng trò chuyện thì thào của những hành khách cùng toa.
Quá trưa hôm sau, rặng Alatau bắt đầu hiện ra - từ Chimkent và kéo dài suốt vùng Semirechija bát ngát. Núi ra núi, nhìn mà sướng mắt! Edigej-Bão Tuyết đã từng được ngắm bao lần những đỉnh núi hùng vĩ phủ tuyết, sừng sững vươn cao dọc tuyến đường sắt đến tận Alma-Ata ấy, nhưng chưa bao giờ anh thấy chán mắt. Đối với anh, dân vùng thảo nguyên Sarozek, đó quả là một kỳ quan, một cảnh tượng của vĩnh hằng. Rặng Alatau chẳng những khiến anh khâm phục về sự hùng vĩ, mà còn khơi dậy trong tâm hồn anh nhu cầu suy ngẫm khi ngắm nhìn nó. Anh rất thích thú với cảm giác ấy - anh lặng lẽ suy ngẫm khi rặng núi kia hiện ra trước mắt. Anh nghĩ đến hết thảy những gì sẽ trình bày và cả lời ăn tiếng nói nữa, với những người có trách nhiệm mà anh chưa từng gặp, trong những cuộc tiếp xúc sắp tới. Những người đó đã trịnh trọng tuyên bố rằng những sai lầm trước đây sẽ không bao giờ còn tái diễn nữa, và chính vì lẽ đó nên anh muốn kể hết với họ câu chuyện chua xót về gia đình Abutalip. Để họ xem xét, họ quyết định bây giờ phải làm gì sửa chữa sai lầm đó. Dù không làm cho Abutalip sống lại được, ít ra cũng để cho hai đứa con anh ấy không còn bị ai xúc phạm, để cho mọi con đường đều rộng mở trước mặt chúng. Thằng lớn - Daul - thu này đã phải cắp sách đến trường, phải để cho nó được đi học đàng hoàng, chẳng phải sợ hãi, giấu giếm gì hết. Khổ nỗi, không biết hai anh em nó hiện giờ ở đâu? Sống ra sao? Và Zaripa đang phải xoay xở thế nào để nuôi hai đứa?
Anh thấy lòng nặng trĩu một nỗi xót xa, khi nghĩ tới chuyện đó. Đã đến lúc phải quên đi dĩ vãng, cất đi cái gánh nặng đè trĩu lòng mình. Cô đã ra đi, để anh đừng bao giờ nghĩ đến cô, người thiếu phụ thân thương ấy nữa. Nhưng chỉ Thượng đế họa chăng mới biết được cái gì có thể quên đi, và cái gì không thể! Edigej-Bão Tuyết buồn lòng, lặng người đi, nhẫn nhục cam chịu sự an bài của số phận. Thì còn biết tâm sự cùng ai nữa? Ai là người hiểu được lòng anh? Những ngọn núi phủ tuyết đang vươn cao mãi lên trời kia hẳn sẽ hiểu ngay đấy, nhưng trên cao ấy chắc gì chúng đã để tâm đến những nghịch cảnh trần tục của kiếp người. Chúng vẫn là những đỉnh núi hùng vĩ của rặng Alatau, khi bao người trần thế đã ra đời, rồi chết đi, và hẳn chúng cứ trường tồn thế mãi cho dù chúng đã khơi dậy ở con người bao ý nghĩ, khi chiêm ngưỡng chúng, trong khi chúng vẫn lặng thinh, thi gan cùng năm tháng...
Edigej bỗng nhớ lại một ý nghĩ mà Abutalip đã có lần tâm sự cùng anh, ít lâu sau ngày ghi được câu chuyện về nhà danh ca Rajmaly và ngẫm nghĩ nhiều về câu chuyện đó. Abutalip nói: Những người như Rajmaly và Begimaj, khi gặp nhau trên đường đời, họ đem đến cho nhau bao hạnh phúc, thì cũng gây cho nhau bấy nhiêu khổ đau - vì họ cùng lôi cuốn nhau vào một tấn bi kịch không lối thoát: Tình cảnh bất lực của con người khi cố tìm cách vượt ra ngoài vòng phán xét chật hẹp của đồng loại. Họ hàng thân thích của Rajmaly đã cấm ngăn ông, vì họ lầm tưởng rằng làm như thế chính là bảo vệ lợi ích của ông. Lúc bấy giờ, những lời triết lý thông minh ấy, đối với Edigej, vẫn chỉ là những lời bàn luận thông thái đơn thuần không hơn không kém, cho mãi đến ngày chính anh đã trải qua đau khổ, anh mới hiểu được, qua kinh nghiệm bản thân, cái lẽ phải chứa đựng trong đó. Dù câu chuyện giữa anh và Zaripa khác xa câu chuyện đó, như mặt trăng với mặt trời, dù giữa họ chưa hề xảy ra chuyện gì, ngoài việc anh nghĩ nhiều đến cô và tha thiết yêu cô, nhưng Zaripa vẫn tự đứng ra nhận lấy đòn trừng phạt trước tiên, để lẩn trốn tấn bi kịch không có lối thoát nhất định xảy đến. Cô đã tự quyết định cắt đút hẳn mối quan hệ giữa hai người, như người ta thắt chặt động mạch, cho máu đừng chảy nữa, nhưng chẳng nghĩ gì đến anh, nghĩ đến cái giá mà anh sẽ phải trả cho cái quyết định của cô. May mà anh vẫn sống đến bây giờ, tuy rằng phải sống rất cay cực. Và giờ đây, nỗi nhớ nhung thỉnh thoảng hiện về, khiến anh day dứt đến mức anh sẵn sàng chạy đến tận cùng trời cuối đất, miễn là được gặp lại cô, miễn là được nghe cô nói, dù chỉ một vài lời...
Edigej tuy tự cười thầm, nhưng vẫn nhớ đến điều mà Abutalip đã nói cho anh hay, và lúc bấy giờ anh cảm thấy là kỳ diệu: một danh nhân ai ai cũng biết tiếng, bên nước Đức, nhà thơ vĩ đại Goethe, đâu như cũng gặp một câu chuyện tương tự như câu chuyện của chính anh. Tên của nhà thơ phát âm theo tiếng Kazak, tuy không được thuận tai cho lắm, nhưng điều đó can hệ gì - mỗi người vốn được số mệnh gán cho một cái tên, bất chấp ý thích của anh ta cơ mà? Ông già Goethe ấy, tuy đã ngoài bảy mươi, cũng say mê một cô thiếu nữ và đã được nàng đem lòng yêu lại bằng một tình yêu tha thiết. Chuyện đó ai ai cũng biết, nhưng chẳng ai nỡ trói chân trói tay ông và lu loa rằng ông hóa rồ... Còn Rajmaly thì phải chịu trăm cay nghìn đắng! Bị hạ nhục, bị làm cho điêu đứng, đến nỗi phải lìa đời, mà chung qui chỉ vì họ mong cho ông gặp được điều lành điều tốt... Zaripa cũng muốn đem lại điều lành, điều tốt cho anh, cô đã làm những gì lương tâm mách bảo... Vì thế, anh chẳng hề bực tức, ghét bỏ gì cô. Làm sao lại có thể bực tức, ghét bỏ người mà mình yêu dấu? Có đáng trách chăng chỉ nên tự trách mình. Thà cứ nhận lấy phần đau khổ về mình, còn hơn là trút lên đầu cô ấy... Và nếu được, thì nên nhớ đến cô ấy và yêu cô ấy, ngay cả khi cô ấy đã từ bỏ anh...
Edigej-Bão Tuyết đã lên tàu, đi Alma-Ata, chính vì anh vẫn nhớ và yêu Zaripa, vẫn nhớ đến Abutalip và hai thằng bé mồ côi, con anh ấy.
Mãi đến lúc tàu sắp vào ga Alma-Ata, Edigej mới chợt nghĩ tới cảnh khó khăn sẽ xoay trở sao đây nếu Elizarov đi vắng? Quái quỷ chưa! Sao mình không nghĩ tới chuyện đó ngay từ lúc ở nhà? Cả Ukubala cũng thế. Hai vợ chồng chỉ toan tính chuyện thuộc về phần mình. Quanh năm, hai vợ chồng cứ ru rú ở Sarozek, nên tưởng ai cũng như mình. Afanasij Ivanovich rất có thể vắng nhà lắm chứ. Làm việc ở Viện hàn lâm, thiếu gì người mong kẻ đợi anh ấy. Hơn nữa, một học giả cỡ anh ấy đâu phải ít công việc.
Rất có thể anh phải công tác đâu đó, phải xa nhà vài ngày. "Nếu thế thì thật rủi ro!" - Edigej lo lắng. Và anh đã bắt đầu tính đến chuyện phải đến gặp ban biên tập tờ báo của ngành mình, in bằng tiếng Kazak, địa chỉ của tòa soạn, số báo nào cũng có in ở cuối trang. Thế nào người ta cũng sẽ mách cho anh nên đến bộ phận nào, nên gặp ai. Mà cần gì phải là nhà báo mới biết rõ nên đến đâu để trình bày những việc loại ấy! Ở nhà, anh cảm thấy mọi cái đều rất đơn giản - chỉ việc thu xếp vài thứ, rồi lên đường, thế thôi. Bây giờ, lúc sắp đến nơi, Edigej-Bão Tuyết mới thấy lo. Chẳng phải tự dưng mà các cụ ngày xưa lại bảo: Anh thợ săn mà cứ ngồi ru rú ở nhà mơ mộng đến cuộc săn, là anh thợ săn xoàng. Ấy thế mà chính anh đã xử sự y hệt như vậy đấy. Dĩ nhiên, anh đã có tính đến chuyện nhờ vả Elizarov. Elizarov thì anh coi như chỗ người nhà: quen biết nhau từ lâu, anh ấy đã từng nhiều lần ăn ở tại nhà anh tại ga Boranly, lại biết rõ chuyện Abutalip Kuttybaev. Ai chứ Elizarov thì chỉ cần nói nửa câu đã hiểu hết ngọn ngành. Kể với người lạ: nên ăn nói thế nào, mở đầu ra sao và lời lẽ thế nào - như cách đứng ra làm nhân chứng trước tòa, hay chỉ báo cáo bình thường, hay còn cách nào khác nữa? Không khéo họ lại vặn vẹo: trước hết, anh là ai, tại sao anh cứ nằng nặc đòi minh oan cho Abutalip Kuttybaev? Quan hệ giữa hai người thế nào? Anh là anh trai, anh rể hay anh họ?
Tàu vào đến ngoại ô Alma-Ata. Hành khách đã thu xếp hành lý, ra đứng sẵn ở hành lang, chờ tàu đỗ. Edigej cũng đã sắp sẵn mọi thứ, chỉ chờ tàu dừng lại là bước xuống. Nhà ga hiện ra kia rồi và chỉ chốc lát nữa thôi, tàu sẽ về đến đích. Trên sân ga, người chen chân không lọt: người ra đón người thân, kẻ chuẩn bị lên tầu về Moskva. Tàu từ từ dừng lại, Edigej-Bão Tuyết bỗng nhìn thấy bóng Elizarov lướt qua ngoài khung cửa sổ. Anh mừng quýnh, y như một cậu bé con. Elizarov vừa tươi cười vẫy mũ chào anh, vừa bước nhanh lên đoàn tàu. May quá! Edigej chẳng dám mơ đến chuyện Elizarov sẽ đích thân ra đón. Từ mùa thu năm ngoái đến giờ, họ chưa gặp lại nhau. Không, Afanasij Ivanovich vẫn không hề thay đổi, tuy anh đã luống tuổi. Vẫn cái dáng hoạt bát, vẫn cái vóc gầy gầy, như ngày nào. Kazangap gọi anh ấy là argamak - ngựa đua thuần chủng. Một lời khen quí giá nhất của bác ta - "argamak Afanasij". Elizarov biết thế và hồ hởi chấp nhận - cứ mặc cho ông cụ nói, nói theo cái cách ông cụ ưa thích! Có điều Kazangap còn gắn thêm đằng sau chữ "già": "argamak-già". Nhưng già thì già, vẫn cứ là một argamak chính cống! Elizarov rất cám ơn về cách gọi ấy! Và anh rất hay ghé về Sarozek công tác, giản dị trong bộ áo quần điền dã, với đôi ủng may bằng vải kirza[19], với chiếc mũ lưỡi trai tàng tàng, từng theo chủ nhân đi khắp đó đây, với chiếc áo vét-tông màu xanh thẫm, cắt rất khéo, khoác bên ngoài sơ-mi, với chiếc cà vạt tinh tươm trên cổ, mặc dù anh vẫn đang lặn lội giữa vùng Sarozek. Chiếc vét-tông ấy rất hợp với khổ người Elizarov, và cái chính là hợp với mái tóc đã bạc quá nửa trên đầu.
Trong khi tàu chưa đỗ hẳn, Afanasij Ivanovich vẫn sóng bước bên toa tàu, hướng gương mặt tươi cười qua cửa sổ nhìn Edigej. Đôi mắt xám, ẩn dưới hai hàng mi bạc trắng, ánh lên một vẻ sung sướng chân thành về cuộc gặp gỡ bấy lâu từng mong đợi. Lòng Edigej ấm hẳn lại, và những ngờ vực mới đây phút chốc đã tiêu tan hết. Anh mừng rỡ: "Mở đầu đã tốt đẹp rồi, cầu trời cho chuyến đi này thành công".
- Chà, rốt cuộc rồi cũng thưởng công cho tôi cơ đấy! Khiếp, bao lâu rồi nhỉ, chào anh Edigej! Xin chào, Bão Tuyết - Elizarov hớn hở.
Hai người ôm chầm lấy nhau. Vì đông đúc, vì mừng vui, Edigej có hơi bối rối. Trong khi đưa nhau ra một chỗ vắng ở cạnh ga, Elizarov dồn dập hỏi bạn đủ điều. Nào sức khỏe của mọi người dưới ấy ra sao - Kazangap, Ukubala, Bukej, mấy cô con gái của anh, nào bây giờ ai làm trưởng ga. Thậm chí cả về Karanar nữa.
- Sao, con Karanar-Bão Tuyết của anh độ rày thế nào? - Elizarov tiếp, vẫn vui vẻ như ban nãy, miệng cười suốt - vẫn gầm rống liên miên như sư tử chứ?
- Nó đi rong một chuyến đến cả tuần lễ. Khiếp, chẳng còn thiếu chuyện gì là nó không làm - Edigej đáp - Dẫu sao nó vẫn tung hoành trên Sarozek thênh thang của nó. Thì nó cần gì khác đâu?
Cạnh ga đang đỗ một chiếc ô tô đen to lớn, nước sơn bóng nhoáng. Xe ô tô mà bề thế như vậy, Edigej mới nhìn thấy lần đầu. Đó là chiếc xe mang nhãn hiệu ZIM - loại ô tô tốt nhất của những năm 50.
- Con Karanar của tôi đấy - Elizarov đùa - Lên xe đi, Edigej ạ - Anh tiếp, với tay mở cánh cửa trước - Để ta còn về.
- Thế ai lái? - Edigej hỏi.
- Tôi tự lái lấy - Elizarov đáp và ngồi vào sau vô-lăng - về già, tôi chơi ngông một chuyến, như anh thấy đấy. Anh xem, ta kém gì dân Mỹ đâu?
Elizarov ung dung nổ máy. Rồi, trước lúc xe chuyển bánh, anh mỉm cười nhìn khách, ra ý hỏi:
- Anh lên đây, chắc chẳng phải chỉ đi chơi suông đâu nhỉ? Cứ nói thực tình đi: ở được bao lâu nào?
- Tôi lên đây có chút việc, anh Afanasij Ivanovich ạ. Chưa biết có trôi chảy không. Thành thử tôi phải gặp anh trước, nhờ mách nước giúp.
- Tôi biết là anh lên đây vì công việc rồi, chứ không đời nào anh chịu xa rời giang sơn Sarozek! Đúng chứ? Thôi, ta hẵng tạm thu xếp thế này: Tôi sẽ đưa anh về đằng nhà. Nghỉ ở đó ít lâu. Đừng cãi tôi Edigej. Tôi chẳng để anh trọ ở khách sạn đâu. Anh là khách quí của tôi kia mà. Cũng như những dịp tôi về dưới Sarozek, đều ăn ở tại nhà vợ chồng anh vậy. Syjdyn syjy bar - người Kazak vẫn nói thế! Kính trọng đáp lại bằng kính trọng! Đúng không nào?
- Vâng, đại để thế - Edigej xác nhận.
- Thôi, ta thỏa thuận với nhau rồi đấy. Hơn nữa, được thế tôi càng vui thêm. Vì bà Julija nhà tôi đã lên với thằng cháu trên Moskva rồi: chả là vợ nó vừa sinh thêm được đứa nữa. Thành ra bà ấy mừng quýnh lên, hối hả đến với các cháu ngay.
- Lại có thêm một cháu nội nữa, chúc mừng anh! - Edigej nói.
- Vâng, anh nên nhớ là đứa thứ hai đấy nhé - Elizarov reo lên, vươn cao hai vai lên - ít nữa được làm ông, anh sẽ hiểu tôi hơn! Mà chẳng xa xôi gì đâu. Hồi bằng tuổi anh bây giờ, tôi còn nhởn nhơ như gió ngoài đồng trống. Kể cũng lạ, tôi với anh không cùng trang lứa, thế mà vẫn rất hiểu nhau. Thôi, ta đi nhỉ? Tôi sẽ đưa anh dạo một vòng quanh thành phố, phía trên đồi kia. Đã bao giờ anh được ngắm núi non, ngắm tuyết trắng trên đỉnh, khi đứng ở trên cao chưa nhỉ, tuyệt lắm; tôi sẽ đưa anh đến sát bên chân núi, đến tận Medeo. Còn nhà vợ chồng tôi, hình như tôi đã kể với anh rồi, ở tít ngoai rìa thành phố, như giữa nông thôn vậy.
- Tôi nhớ rồi, Afanasij Ivanovich ạ. Anh bảo, nhà ở ngay bên suối. Suốt ngày toàn nghe tiếng nước róc rách chảy.
- Lát nữa, anh sẽ thấy tôi chẳng nói ngoa chút nào. Ta lên đường thôi. Trời còn lâu mới tối, tha hồ ngắm cảnh phố phường. Lại đang là mùa đẹp nhất trong năm, đang xuân nhé! Hoa nở rộ khắp nơi.
Giữa lòng thành phố, con đường thẳng tắp chạy từ ga xuyên gần như suốt thủ đô, rồi vươn dài về phía xa. Con đường mỗi lúc lại lên cao dần. Hai bên đường san sát những gốc thông xanh, chen lẫn những vườn hoa rộng. Elizarov cho xe chạy từ từ. Anh vui vẻ giới thiệu với bạn, mỗi lúc một nhiều, những cơ quan này nọ, những cửa hàng bách hóa, những khu nhà ở. Ngay trung tâm thành phố, trên một quảng trường rộng thênh thang và quang đãng, sừng sững một tòa nhà đồ sộ. Nhờ được thấy nhiều lần trên tranh ảnh, Edigej nhận ra ngay Trụ sở chính phủ nước Cộng hòa.
- Ban Chấp hành Trung ương cũng làm việc ở đó - Elizarov gật đầu.
Họ đi qua, không hề ngờ rằng sáng hôm sau hai người đã lại đưa nhau đến đó để trình bày vụ Abutalip. Edigej-Bão Tuyết còn được thấy tận mắt một tòa nhà nữa, khi xe họ bỏ con đường thẳng tắp đang đi, để rẽ sang trái, đó là nhà hát ca kịch Kazakhstan. Rồi sau khi vượt qua vài ba khu phố nữa, hai người lại vòng trở về con đường dẫn lên núi - lên khu thể thao Medeo. Trung tâm thành phố đã lùi lại đằng sau. Elizarov cho xe bon trên một đường phố dài, chạy giữa những tòa biệt thự, những bồn hoa, nằm trên bờ những dòng kênh thủy lợi đầy ắp nước, róc rách chảy từ trên núi xuống. Bốn phía san sát những vườn cây ăn quả đang kỳ rộ hoa.
- Đẹp quá! - Edigej thốt lên.
- Tôi rất mừng là anh lên chơi đúng vào dịp này - Elizarov đáp - Thật không đâu đẹp bằng Alma-Ata. Mùa Đông, cảnh vật ở đây cũng rất đẹp, nhưng lúc này tuyệt nhất! Lòng tôi như đang ca hát vậy!
- Nghĩa là anh đang thấy lòng thanh thản - Edigej mừng thay cho Elizarov.
Elizarov ngước đôi mắt xám hơi lồi gật đầu nhìn bạn, rồi cau mày, nghiêm mặt lại, nhưng chỉ thoáng chốc những nếp nhăn bên khóe mắt lại xòe nở: anh mỉm cười thích thú.
- Xuân này là mùa Xuân đặc biệt, Edigej ạ. Đất nước đang có nhiều thay đổi. Vì thế, cuộc sống càng thú vị hơn, tuy tuổi tôi mỗi năm một nhiều. Ta cứ ngoái nhìn dĩ vãng, mà ngẫm nghĩ kỹ lại xem. À, đã bao giờ anh bị ốm một trận liệt giường, đến nỗi lúc bình phục, anh bỗng cảm nhận được hương vị cuộc sống khác hẳn trước chưa ấy nhỉ?
- Tôi chẳng cần nhớ nữa - Edigej đáp bâng quơ - đâu như sau cái lần bị chấn thương...
- Anh xưa nay vốn lực lưỡng như một con bò mộng ấy mà! - Elizarov phá lên cười - Thực tình tôi không định nói thế. Chỉ là quen mồm... Thế đấy. Chính Đảng ta đã tự nói lên tiếng nói đầu tiên. Tôi rất lấy làm hài lòng về điều đó, mặc dù về phía cá nhân, tôi chẳng có lý do gì đặc biệt cả. Tôi thấy lòng phơi phới và tràn trề hy vọng như hồi còn trai trẻ. Hay chẳng qua chỉ vì tôi đã thực sự già rồi? Vì lẽ ấy chăng?
- Tôi lên đây cũng chính vì sự kiện đó. Afanasy Ivanovich ạ.
- Cụ thể là vì việc gì?
- Hẳn anh còn nhớ đấy. Có lần, tôi đã kể với anh câu chuyện về Abutalip Kuttybaev.
- Chà, ra thế cơ đấy, ra thế cơ đấy! Dĩ nhiên tôi còn nhớ như in câu chuyện đó. Ra chính là vì vụ ấy. Anh đã nhìn ra thực chất của vấn đề, cừ thật! Và tức tốc lên ngay.
- Cừ gì cái thứ tôi. Ukubala gợi ý cho tôi đấy. Mỗi tội là chưa biết bắt đầu như thế nào. Đi đâu? Gặp ai?
- Bắt đầu thế nào ư? Chuyện đó, chúng mình phải bàn kỹ một tí. Nhưng thôi, để về nhà, pha ấm trà, ta ngồi bàn cho đến nơi đến chốn - rồi Elizarov nói tiếp, giọng đầy ngụ ý, sau một hồi im lặng: - Thời thế đúng là đổi thay rồi Edigej ạ. Chứ cách đây ba năm, ngay cả trong ý nghĩ, làm gì anh đã dám tính đến chuyện lên đây, yêu cầu xác minh vụ đó. Còn bây giờ khác hẳn. Chẳng còn gì để lo sợ nữa. Về nguyên tắc, lẽ ra phải như thế. Phải làm thế nào để tất cả chúng ta, không trừ ai, đều dám đứng lên bảo vệ lẽ phải, cho chính nghĩa. Và không một ai được phép hưởng một đặc quyền nào hết. Tôi hiểu vấn đề như thế đấy.
- Anh ở thủ đô, nên thấy vấn đề sáng hơn. Vả lại, anh còn là một học giả - Edigej nói thêm ý nghĩ của riêng mình, - ở dưới ấy, trong cuộc mít-tinh tổ chức tại đoạn đầu máy, nhiều người cũng phát biểu thế. Hôm ấy, tôi đã nghĩ ngay tới chuyện Abutalip, vì lâu nay chuyện ấy cứ dằn vặt tôi hoài. Thậm chí tôi còn muốn lên diễn đàn nữa kia. Mà chẳng phải chỉ để nói về lẽ phải, về lẽ công bằng đâu. Abutalip còn để lại hai thằng con, hai đứa giờ đã lớn, thằng anh sang thu đã phải cắp sách đến trường...
- Ba mẹ con cô ấy hiện giờ ở đâu?
- Tôi làm sao biết được. Mấy mẹ con đã đưa nhau đi nơi khác lâu rồi. Gần ba năm nay, nên tôi chẳng biết tí gì.
- Điều đó chẳng có gì đáng lo. Ta sẽ tìm được họ thôi, nhất định sẽ tìm được. Cái quan trọng nhất lúc này, nói theo cách nói của tòa án, là yêu cầu thẩm xét lại vụ Abutalip.
- Chính thế đấy. Tôi biết thế nào anh cũng sẽ tìm được ngay những lời lẽ cần thiết. Vì thế tôi mới lên đây gặp anh.
- Tôi nghĩ chuyến đi của anh sẽ không vô ích đâu.
***
Nhờ biết gõ đúng cửa, công việc trôi chảy nhanh. Edigej về nhà đúng ba tuần, một công văn từ Alma-Ata đã gửi xuống, ghi rõ bằng giấy trắng mực đen, rằng Abutalip Kuttybaev, nguyên công nhân đường sắt ở ga Boranly-Bão Tuyết, đã chết trong thời gian cứu xét, được phục hồi danh dự vì hoàn toàn vô tội. Tờ công văn ghi rõ rành rành như thế! Đây là bản sao gửi cho đơn vị, để thông báo với toàn thể công nhân, cán bộ nhà ga, nơi đương sự từng làm việc trước đây.
Gần như cùng một lúc với tờ công văn kia, Edigej còn nhận được của Afanasij Ivanovich Elizarov một bức thư thật đáng nhớ. Edigej đã giữ lại suốt đời bức thư ấy, cùng với những giấy tờ quan trọng nhất của gia đình: Giấy khai sinh của hai đứa con, bằng khen và huân chương, huy chương về thành tích chiến đấu, giấy tờ xác nhận thương tật trong thời kỳ ngoài mặt trận và các bản nhận xét công tác hàng năm...
Trong bức thư dài ấy, Afanasij Ivanovich báo tin rằng anh ấy rất lấy làm hài lòng về việc cấp trên đã giải quyết nhanh chóng vụ Abutalip và rất sung sướng về việc Abutalip được phục hồi danh dự. Anh coi sự kiện đó là dấu hiệu tốt lành của thời buổi mới, và theo lời anh, là một thắng lợi mới của chính bản thân mình.
Elizarov còn cho biết rằng sau khi Edigej ra về, anh đã mấy lần đến gặp thêm những cơ quan mà hai người từng cùng nhau đến, và được biết thêm nhiều tin tức quan trọng. Một là viên dự thẩm Tansykbaev đã bị cách chức, thải hồi, bị tước lại mọi bằng khen, huy chương đã được tặng thưởng trước đây và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hai là, anh nhận được một thông báo cho biết gia đình Abutalip Kuttybaev hiện đang sống tại Pavlodar. (Ba mẹ con đã đưa nhau đến mãi tít tận đấy, khiếp thật!). Zaripa hiện làm giáo viên ở một trường cấp I. Cô ấy đã kết hôn cùng một người khác. Tin chính thức do cơ quan hữu trách địa phương cung cấp. Elizarov cũng cho hay thêm rằng những nghi ngờ của Edigej về viên thanh tra ấy hoàn toàn được xác nhận trong quá trình thẩm xét vụ án. Thì ra chính hắn đã viết đơn tố giác Abutalip Kuttybaev. "Tại sao hắn lại làm cái trò ấy, cái gì đã xui hắn ngậm máu phun người như thế? Tôi đã ngẫm nghĩ nhiều về điều đó, nhớ lại cả những chuyện tương tự, đã được nhìn thấy tận mắt, cũng như những gì anh đã kể với tôi, Edigej ạ. Vẽ lại trong óc toàn bộ câu chuyện, tôi thử cố tìm hiểu những động cơ nào đã thôi thúc hắn ta hành động như vậy. Tiếc thay, mãi đến giờ tôi vẫn chưa tìm ra lời giải đáp. Tôi không tài nào cắt nghĩa nổi cái gì đã nhen lên trong ruột gan hắn lòng căm ghét đê tiện ấy đối với một người hoàn toàn chẳng hề liên quan gì đến hắn - Abutalip Kuttybaev? Chắc hẳn đó là một chứng bệnh, một thứ dịch mà nhiều người đã mắc phải, đã nhiễm phải trong một chặng đường lịch sử nào đó. Cũng có thể là cái tâm địa tai ác kiểu đó vốn ẩn náu trong bụng dạ con người, ngay từ buổi nhân loại mới hình thành - lòng ghen ghét, đố kỵ đã lần hồi hủy hoại tâm hồn và cuối cùng, dẫn người ta đến chỗ nhẫn tâm, ác độc. Nhưng một người như Abutalip thì có thể có điều gì để khơi dậy ở ai đó lòng ghen ghét độc địa kiểu đó? Câu hỏi đó đối với tôi vẫn là một câu đố hiểm hóc. Còn về cách thức đàn áp, tàn sát, thì nó cũng xưa cũ như trái đất này, Edigej ạ. Có thời, chỉ cần bị tố giác là kẻ dị giáo, nạn nhân cũng đã bị ném đá đến lõa máu đầu, máu mặt, giữa các buổi chợ phiên ở Bukhara; còn bên châu Âu thì bị lên giàn hỏa. Chuyện đó, tôi đã nói với anh nhiều rồi nhân chuyến đi Alma-Ata của anh vừa qua. Sau khi những sự kiện vụ án Abutalip được làm sáng tỏ qua quá trình thẩm xét, tôi càng thêm tin chắc rằng, phải còn lâu nữa con người mới gột sạch được trong tâm hồn mình cái tật xấu đó - căm ghét, thù hằn đối với nhân cách trong mỗi một con người. Nhưng lâu là bao nhiêu thì còn khó đoán lắm. Tuy nhiên, bất chấp hết thảy những cái đó, tôi vẫn ngợi ca cuộc sống vì sự bất diệt của lẽ phải, của chính nghĩa trên trái đất. Anh xem đấy, lẽ phải, chính nghĩa, lần này lại chiến thắng! Dẫu phải trả một giá quá đắt chăng nữa, nhưng nó vẫn chiến thắng! Và bao giờ cũng vẫn thế, khi nhân loại còn tồn tại. Tôi rất lấy làm hài lòng là anh đã giành lại được lẽ phải một cách hết sức vô tư, hào hiệp...".
Ấn tượng của bức thư đó vẫn tươi nguyên trong tâm trí Edigej suốt nhiều ngày. Và anh tự lấy làm lạ cho chính mình - bản thân anh đã đổi thay nhiều, anh tiếp nhận thêm một điều gì đó, như thể hiểu rõ được mình hơn. Lúc bấy giờ, lần đầu tiên, anh bắt đầu nghĩ đến chuyện đã đến lúc phải lo liệu cho tuổi già, chẳng còn xa xôi gì nữa...
Bức thư của Elizarov đánh dấu một bước ngoặt trong đời anh, chia nó thành hai chặng: trước và sau ngày nhận được thư. Hết thảy những gì thuộc chặng đầu, đã lùi về dĩ vãng mờ mờ sương khói, xa dần, như dải bờ cát khi nhìn từ ngoài khơi vào. Hết thảy những gì thuộc chặng sau, đều bình thản trôi đi, ngày nọ tiếp ngày kia, khiến anh có cảm tưởng là chúng sẽ kéo dài rất lâu nhưng không phải là bất tận. Nhưng cái chính là nhờ bức thư đó, anh biết được rằng Zaripa đã đi lấy chồng. Tin ấy một lần nữa lại khiến anh thấy lòng nặng trĩu. Anh tự an ủi mình, rằng chuyện ấy anh đã biết, đã có dự cảm từ trước rồi, nhờ một thứ linh cảm nào đó mách bảo, mặc dù anh chẳng hề biết cô hiện ở đâu, hai thằng bé có bị trắc trở gì không, cô sinh sống ra sao giữa những người xa lạ. Anh cảm nhận được điều đó một cách hết sức rõ ràng và da diết, nhất là lúc đáp tàu về lại với gia đình. Khó mà nói được vì lẽ gì cảm giác đó lại đến với anh. Nhưng hoàn toàn chẳng phải vì tâm tư anh đang sầu muộn. Trái lại, Edigej rời Alma-Ata với một tâm trạng hoan hỉ. Anh và Elizarov đi đến đâu cũng được tiếp đón rất thân tình và thông cảm. Và điều đó tự nó cũng khiến anh tin tưởng vào sự đúng đắn của những dự định mình đang theo đuổi và khiến anh thêm hy vọng vào kết quả tốt lành của việc thẩm xét lại vụ án. Thực tế quả đúng như vậy. Hôm Edigej rời Alma-Ata, Elizarov đã đưa anh đến một hiệu ăn lớn cạnh ga, dùng bữa. Còn lâu mới tới giờ tàu chạy, đôi bạn rất ung dung thù tạc và giãi bày tâm tư trước giờ tiễn biệt. Trong lần trò chuyện đó, theo như Edigej hiểu, Afanasy Ivanovich đã ngỏ cùng anh một ý nghĩ thầm kín vẫn ấp ủ bấy nay. Vốn là một đoàn viên Kômxômôn Moskva, tình nguyện đến Turkestan chiến đấu ngay từ những năm hai mươi, chống lại bọn thổ phỉ Basmach[20] rồi lưu lại đây suốt đời đeo đuổi công việc thăm dò địa chất; Elizarov cho rằng chẳng phải vô cớ mà toàn thể thế giới đã đặt bao hy vọng vào những gì đã được Cách mạng tháng Mười khai phá. Dù phải trả giá đắt cho những sai lầm và thất bại, nhưng cuộc hành tiến trên nẻo đường chưa khai phá ấy vẫn không dừng lại phút nào - thực chất của lịch sử chính là ở đó. Anh còn nói thêm rằng giờ đây cuộc hành tiến ấy sẽ được triển khai với một sức mạnh mới. Chỗ dựa vững chãi cho điều đó là biết tự sửa sai, tự thanh lọc xã hội. "Nếu chúng ta có thể tự nói thẳng với chính mình điều đó, nghĩa là chúng ta vẫn có đủ sức lực cho ngày mai, cho tương lai" - Elizarov khẳng định. Đôi bạn đã tâm sự thoải mái biết bao trong bữa cơm tiễn biệt ấy.
Chính với tâm trạng ấy Edigej-Bão Tuyết đã lên đường về lại Sarozek của anh.
Rặng Alatau biếc xanh ánh tuyết lại diễu qua trước mắt Edigej. Và bấy giờ, trong lúc tính toán trên đường những công việc phải làm khi đến Alma-Ata, anh đã hiểu, như được tiếng nói nội tâm mách bảo, rằng có lẽ Zaripa đã đi lấy chồng.
Nhìn núi non, nhìn phong cảnh xa xa trong vắt của tiết xuân, Edigej bất giác nghĩ rằng trên đời này vẫn còn có những người trung thực - cả trong lời nói, lẫn trong việc làm, như Elizarov, rằng thiếu những người như anh ấy, con người hẳn còn phải cay cực, khổ sở hơn gấp bội, trên mặt đất này. Và sau khi chấm dứt tất cả những vất vả trong việc chạy tới chạy lui minh oan cho Abutalip, Edigej cũng bất giác nghĩ đến những cảnh ngang trái của thời thế đảo điên - giá còn sống, thì giờ đây Abutalip sẽ được giải hết những nỗi oan ức, và chắc hẳn anh sẽ tìm lại được niềm hạnh phúc và những ngày tháng bình yên bên hai đứa con trai. Giá anh còn sống nhỉ! Chẳng cần gì khác nữa. Giá anh còn sống, dĩ nhiên Zaripa vẫn sẽ thủ tiết đợi anh cho đến ngày trút hơi thở cuối cùng. Dứt khoát là như thế. Người thiếu phụ ấy sẽ vẫn đợi chồng, vì cô chẳng cần gì khác cả. Còn nếu chẳng có ai nữa để mà chờ, thì việc gì lại phải sống cô đơn, trong khi mình vẫn còn son trẻ, gần như là một thiếu nữ. Một khi cơ sự đã thế và nếu gặp được một người tâm đầu ý hợp, thì sao lại không chọn người ấy làm chồng? Dẫu sao, Edigej cũng rầu rĩ vì những ý nghĩ ấy. Anh thử cố nghĩ sang chuyện khác, cố không nghĩ đến nó nữa, không để cho trí tưởng tượng mặc sức tung hoành nữa, nhưng nào có ăn thua. Anh bèn bỏ sang toa bán đồ ăn thức uống trên tàu.
Ở đây giờ này còn vắng khách, bàn ghế sạch sẽ, tinh tươm, không khí thoáng đãng - vì tàu mới khởi hành chưa được bao lâu. Edigej ngồi vào một bàn ăn, sát cửa sổ. Anh gọi một chai bia, nhấm nháp một mình để khỏi ngồi không. Khung cửa sổ rộng thênh thang khiến anh tha hồ ngắm nhìn núi non, thảo nguyên, bầu trời mênh mông bao trùm trên cảnh vật. Những cánh đồng cỏ xanh dài tít tắp, đó đây đỏ rực hoa anh túc, ở bên này đường tàu và những dãy núi phủ tuyết hùng vĩ, chập chùng ở phía bên kia, nâng tâm hồn Edigej lên cao, đưa anh đến những ước mơ khó lòng với tới và những nỗi buồn chua xót khôn nguôi. Anh muốn uống một ly rượu thật nồng, cho vơi bớt nỗi buồn. Anh gọi một chai vốt-ca. Đã nhắp cạn mấy cốc rồi nhưng Edigej vẫn cảm thấy như là chưa uống. Anh gọi thêm một chai bia nữa ngồi uống tiếp, mặc cho tâm trí chìm sâu vào suy tưởng. Trời đã ngả về chiều. Những dải đất hai bên đường tàu vun vút lao đi trong màu chiều trong trẻo của tiết xuân.
Thấp thoáng lướt qua bên ngoài cửa sổ nào xóm làng, vườn tược, đường sá, cầu cống, nào người đi đường, nào gia súc. Nhưng tất cả những thứ đó Edigej chẳng buồn để ý, nỗi buồn nhớ da diết bỗng ập đến với một sức mạnh mới mẻ, khiến tâm hồn anh u ám, nặng trĩu: dĩ vãng êm đẹp, thế là đã chấm dứt rồi.
Trong trí nhớ Edigej lại hiện về lời ca vĩnh biệt của Rajmaly:
Khi đoàn du mục từ những ngọn núi đen kéo xuống,
Khi đoàn du mục từ những ngọn đồi xanh kéo xuống,
Em đừng chờ anh trong phiên chợ nữa, Begimaj...
Với tâm trạng đó, Edigej-Bão Tuyết cảm thấy mình cũng bị những sợi thừng nghiệt ngã trói chặt vào gốc bạch dương, như Rajmaly thuở xưa, và cũng bị cưỡng đoạt, bị cắt lìa ra khỏi chính mình...
Anh ngồi như thế đến tận chiều tối, khi toa ăn đông nghẹt khách và ngột ngạt đến tức thở vì khói thuốc bay mù mịt. Edigfej đâm ngỡ ngàng, không hiểu vì lẽ gì những thực khách kia lại khinh suất đến như vậy, sao họ lại có thể xúc động vì những chuyện vặt vãnh đến thế, và tại sao họ lại có thể đi tìm thú vui trong rượu vốt-ca và khói thuốc? Anh đứng dậy, lách người qua dám đông, tìm anh nhân viên bán hàng, đang vừa thở hổn hển, vừa tíu tít chạy đi chạy lại với chiếc khay trong tay, giữa những dãy bàn ăn huyên náo vì tiếng nói, cười ầm ĩ, để thanh toán tiền, rồi hối hả trở về giường mình. Chân bước, người nghiêng ngả vì sàn tàu chòng chành, Edigej càng cảm thấy nặng nề và cô đơn hơn.
Sống làm gì, đi đâu, làm gì nữa?.., Lúc này anh bỗng cảm thấy hết sức dửng dưng với chuyện mình từ đâu ra đi, đâu là nơi phải đến và đi để làm gì; anh dửng dưng với đoàn tàu tốc hành đang hối hả xé màn đêm. Anh dừng lại bên một cánh cửa lên xuống, áp chặt vừng trán nóng bừng lên mặt kính lạnh, cứ đứng yên như thế, chẳng nhìn đi đâu, cũng chẳng để ý tới những hành khách tới lui chộn rộn sau lưng.
Tàu vẫn chòng chành lăn bánh trên đường. Muốn mở cửa, Edigej cũng mở được thôi, vì cũng như mỗi nhân viên ngành đường sắt khác, anh cũng có một chiếc chìa khóa riêng trong túi. Anh có thể mở cửa và bước qua cái vạch giới hạn đó... Giữa một khu đất vắng vẻ, Edigej nhìn thấy hai đốm sáng xa xăm mời gọi trong bóng đêm. Hai cái đốm sáng cứ chập chờn hồi lâu. Chắc là hai khung cửa sổ sáng đèn của một nếp nhà lẻ loi nào đó, mà cũng có thể là hai đống lửa nhỏ, do ai đó nhóm lên để trú đêm. Chắc họ đang xúm xít quanh đống lửa. Nhưng họ là ai? Vì lẽ gì họ lại phải qua đêm giữa cảnh đồng không mông quạnh ấy? Chao ôi, ước gì đó là Zaripa và hai thằng bé con cô! Ví thử đúng thế thực, chắc hẳn anh sẽ nhảy ngay xuống, chạy đến bên cô, thẳng một mạch không nghỉ, rồi gục đầu bên chân cô, mà khóc nấc lên không chút ngượng ngập, để nước mắt cuốn sạch đi những nỗi xót xa, buồn bã, đã tích tụ lại từ bấy đến nay.
Edigej-Bão Tuyết khẽ rên lên một tiếng, nhìn hai đốm lửa đang lùi dần trên thảo nguyên. Anh cứ đứng nguyên như thế bên cánh cửa lên xuống, nức nở không thành tiếng, chẳng buồn ngoái đầu lại, cũng chẳng buồn chú ý đến những bước chân rộn rịp qua lại của hành khách ở sau lưng. Mặt anh ướt đầm nước mắt... Và anh vẫn còn có thể mở cửa, bước qua cái vạch giới hạn đó...
Tàu vẫn lăn bánh trên đường, chòng chành khe khẽ.
Khi đoàn du mục từ những ngọn núi đen kéo xuống,
Khi đoàn du mục từ những ngọn đồi xanh kéo xuống,
Em đừng chờ anh trong phiên chợ nữa, Begimaj...
Những chuyến tàu ở vùng này chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông...
Trải rộng hai bên đường tàu ở vùng này là những hoang mạc mênh mông - miền Sarozek và các thảo nguyên úa vàng thuộc miền Đất Giữa.
Ở vùng này, mọi khoảng cách bất kỳ đều được đem so với con đường sắt, như so với kinh tuyến Greenwich.
Những chuyến tàu vẫn chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông...
Rời tổ trên bờ khe Malakumdychap, con diều hâu đuôi trắng bay vút lên không trung thăm chừng các vùng đất chung quanh. Chim bay lượn như thế trên khoảnh giang sơn nó chiếm lĩnh mỗi ngày hai lượt - trước trưa tròn bóng và, sau lúc trời ngả về chiều.
Chim lặng lẽ lượn vòng trên Sarozek, chăm chú quan sát để khỏi bỏ sót mọi động tĩnh dưới mặt đất - thậm chí cả sự di động của những gã bọ hung cục mịch, lẫn những ả thằn lằn tinh ranh - vừa khoan thai vẫy đôi cánh rộng mỗi lúc nâng chim lên cao hơn, để tầm mắt có thể nhìn rộng thêm, xa thêm. Nó không quên xê dịch những vòng lượn rất đều đặn, để càng ngày càng tiến đến gần hơn bãi săn ưa thích nhất - mảnh đất bị rào kín sau những cuộn dây thép gai sắt nhọn. Từ dạo khu vực rộng lớn này bị rào kín, các loại chim muông ở đây đông lên rõ rệt, vì cáo cầy và những giống thú chuyên sục sạo, săn bắt mỗi sáng không còn dám ngang nhiên mò đến đây như trước nữa. Riêng đối với diều hâu ta, cái bờ rào kia chỉ là một trò đùa. Chẳng hề gây khó dễ gì cho nó đã đành, mà thậm chí còn tiếp tay cho nó nữa. Ấy là nói thế thôi. Chứ diều hâu ta cũng đâm ngán ngại những lưỡi gai tua tủa của bờ rào ghê gớm ấy. Đã ba hôm rồi, nó rình rập một chú thỏ con.. Nhưng đến khi nó lao vút xuống như một mũi tên, chú thỏ đã kịp lủi vào giữa hàng rào, và suýt nữa chim ta đã bị dám gai nhọn kia đâm nát ngực. Nó phải vội vàng né người, bay chếch sang bên, rồi hối hả bay lên, giận dữ. Tuy thế, gai nhọn vẫn đâm sau vào giữa một đám lông. Lát sau, từ trên ức nó mấy chiếc lông xám bị rụng ra, bay lơ lửng giữa không trung. Từ đó, diều hâu luôn cố tránh xa cái bờ rào khủng khiếp nọ.
Vào giờ này, con diều hâu đang khoan thai giang rộng cánh bay giữa trời cao, đường bệ như một vị chúa tể trong cái giang sơn của nó, không hề vẫy cánh nhiều hơn mức cần phải có, để khỏi lôi cuốn sự chú ý của các giống vật trên mặt đất. Hôm nay, ngay từ sáng, chim đã tiến hành chuyến bay do thám lần đầu; và giờ đây, đang bay chuyến thứ hai. Cả hai lần, chim đều nhận thấy một cảnh tượng khác lạ: nào người, nào xe cộ, cứ tới lui rộn rịp trên những dãy đường băng thênh thang trong sân bay vũ trụ. Xe cộ thì đi đi về về tấp nập, còn người thì cứ xúm đông xúm đỏ bên những bệ phóng tên lửa. Những quả tên lửa ấy lâu nay vẫn nằm yên như những tòa nhà cao tầng trên các bãi phóng, mũi nghếch lên trời, nên từ lâu chim đã quen mặt. Nhưng hôm nay khác hẳn. Xe cộ đã lắm, mà người lại càng đông, tất cả đều hết sức tất bật...
Chim cũng nhận thấy một người cưỡi lạc đà, hai chiếc máy kéo nổ máy giòn giã và con chó hung lông xù mà nó đã gặp ban sáng giữa thảo nguyên, lúc này đang dừng lại bên ngoài hàng rào thép gai, vì chắc hẳn không tài nào vượt qua nổi...
Chim thấy mình như bị trêu gan, bởi lẽ con chó hung kia trông đến là vô tích sự, nhất là nó cứ xớ rớ, quanh quẩn bên chân mấy người đang đứng cạnh hàng rào. Nhưng chim vẫn tỏ vẻ dửng dưng đối với con chó xù, hơi đâu hạ mình, để tâm đến cái chuyện vớ vẩn ấy cơ chứ? Nó chỉ lượn quanh chỗ đó, để xem cho rõ tình thế và con chó hung lúc nào cũng ngoáy tít cái đuôi lông lá bên chân ngươi, rồi sẽ làm gì..,
Edigej ngẩng khuôn mặt đầy râu lên trời, nhìn con diều hâu đang bay lượn. "Loại đuôi trắng, lớn con lắm đây - bác nghĩ - Chà, giá mình là con diều hâu kia, ai ngăn nổi mình nhỉ. Mình sẽ bay vút đến Ana-Bejit, đậu xuống các phần mộ ở đó!"
Vừa lúc ấy, một chiếc ô tô hiện ra trên đường. "Viên trung úy kia rồi! - Bác mừng rỡ - Thôi, cầu trời cho mọi chuyện trót lọt!". Chiếc com-măng-ca nhanh chóng tiến thẳng về phía thanh gỗ chắn, dừng sát lại bên cửa trạm gác. Cậu lính trẻ đang đứng chờ sẵn. Cậu ta ưỡn người, chào viên trung úy chỉ huy đội bảo vệ Tansykbaev khi anh ta rời xe, báo cáo:
- Đồng chí trung úy, báo cáo đồng chí!...
Nhưng viên chỉ huy phẩy tay, ra hiệu bảo thôi, ngay khi cậu lính gác vừa bỏ tay xuống khỏi vành mũ lưỡi trai, mở miệng định báo cáo, và quay về phía mấy người đang đứng bên ngoài thanh gỗ.
- Ai đề nghị xin gặp? Ai đợi đâu? Đồng chí hả? - Tansykbaev hỏi, hướng sang phía Edigej-Bão Tuyết.
- Biz, bizgoj, karagym. Ana-Bejitke zheltpej turyp kaldyk. Kalaj đa bolsa, zhardamdesh, karadym[21] - Edigej đáp, cố tìm cách cho viên sĩ quan nhận thấy những huân chương, huy chương bác đeo trên ngực.
Nhưng những cố gắng của bác chẳng gây cho Tansykbaev một ấn tượng nào. Viên trung ý chỉ ho khan một tiếng và lạnh lùng ngắt lời Edigej, khi bác định nói tiếp:
- Đồng chí người ngoài, đề nghị hãy dùng tiếng Nga khi tiếp xúc với tôi. Tôi đang thừa hành phận sự quân nhân - Tansykbaev giải thích, hai hàng lông mày rậm chau lại trên cặp mắt lác.
- Đồng chí trung úy, cho phép tôi trình bày đề nghị của chúng tôi - Edilbaj-Cò Hương chen vào, giải nguy cho Edigej.
- Trình bày đi, có điều nên ngắn gọn thôi - Tansykbaev cảnh báo trước.
- Chỉ một phút thôi. Để tôi mời thêm anh con trai của ông cụ vừa quá cố, để anh ta cùng chứng kiến luôn thể - Edilbaj-Cò Hương quay sang phía Shabitzhan - Ê, Shabitzhan, Shabitzhan, lại đây tí đã.
Nhưng Shabitzhan vẫn đi tới đi lui tận đằng xa. Hắn phẩy tay, bực dọc đáp:
- Thì các người cứ việc tự thu xếp lấy.
Edilbaj-Cò H?