← Quay lại trang sách

- 6 -

-6-

Vũ-Đại không phải là không yêu vợ. Đứng cạnh một con người đẹp đẽ như thế, nhu mì như thế không thể nào mà không yêu được. Nhưng một điều khiến cho bà Vũ-Đại tưởng lầm là ông không yêu bà là bởi ông vốn người điềm đạm không có những vồn vã bề ngoài.

Vũ-Đại là người chuộng sự thiết thực, nên chỉ thấy biết sự thiết thực, ông không ngờ rằng ngoài con người hữu tình ngồi cạnh ông, lại còn có một người vô tình sống một cách khác sự thực. Muốn đoạt được tấm lòng yêu của con người hữu tình này còn phải làm những «món ăn» cho thoả mãn sức ước muốn của con người vô tình kia đã.

Vũ-Đại tưởng rằng công trình mình lặn lội bôn ba về doanh nghiệp để đem lại cho vợ một cuộc đời sung túc, thế là đủ rồi.

Ái tình đâu có «giản dị» thế, hay nó chỉ «giản dị» với những người giản dị mà thôi.Vũ-Đại cứ tưởng rằng giữ cho bền ở trong lòng ngọn lửa chung tình đối với vợ, thế là đủ khiến cho vợ sung sướng rồi, chứ có biết đâu bọn đàn bà ít muốn yêu một cách tuyệt đối, âm thầm như thế – hay họ không hiểu – Phải dùng đến những sự phát lộ bề ngoài để cho họ tin rằng lúc nào họ cũng được để ý đến. Gia dĩ vợ chồng Vũ-Đại theo đuổi hai con đường khác nhau: một đằng thì chỉ mơ ước những cảnh non bồng nước nhược ở tận đâu đâu, một đằng chỉ thấy biết những cái kiến kim ở trên đời là cần phải làm cho hết bổn phận làm người, cần phải để lại sau mình một ít dấu vết cho khỏi uổng phí một đời nam nhi hữu dụng. Hai khuynh hướng đã khác nhau, thành thử trong ý chí có nhiều chỗ bất đồng.

Ví dụ trong đời mà gặp những sự đau đớn hoặc nghèo nàn nó bắt phải đối phó với những nhu cầu hiện tại, nó thu hết những thì giờ mơ mộng viển vông đi thì có lẽ bà Vũ-Đại sẽ hiểu chồng hơn mà có lẽ bà sẽ cho cuộc đời bà là sung sướng.

Nhưng cái không may cho bà, cho gia đình bà là nhà bà lại giàu, chồng bà cũng giàu. Bà sống ở trong một hoàn cảnh mà bà chẳng hề phải thèm thuồng ước ao bao giờ, nên bà không biết những bó buộc của đời, nhưng khó khăn vất vả trong khi tranh sống và giá trị chiến đấu cùng nhân cách của những người biết sống.

Một người mà xưa nay sự ăn uống bao giờ cũng sung túc, nghe nói đến đói thì họ còn biết cái đói nó ra thế nào. Một người xưa nay rét thì áo mền, áo dạ, chăn gấm, đệm bông, còn tưởng tượng làm sao được cái khổ cái não của bao con người lấy da thịt làm áo để chống chọi với mưa nắng. Một người mới lọt lòng ra đã ngồi lên trên đống vàng có biết đâu đến những nông nỗi éo le của những con người phải bôn ba về danh lợi. Một ông vua từ tấm bé sống ở long lâu, phượng các, quế điện, lan cung, xung quanh đều là giao thảo, quỳnh hoa trân cầm, dị thú cùng một đám đông những phi tần mỹ nữ, xiêm hoạn, nịnh thần, có hiểu thấu đâu nỗi đau đớn của dân nghèo trong khi mưa dầm gió bấc, tiền hết gạo không, vợ la đói, con la rét.

Trước khi chưa về nhà chồng, bà Vũ-Đại tưởng tượng rằng ở đời nầy phải có một khoảng đất «hạnh- phúc» trời dành riêng để chờ những hạt giống đặc biết như bà.

Bà sở dĩ lấy ông, một là do sự bắt buộc của hai thân, hai là bà xem về hình thức, ông cũng có thể đem lại hạnh phúc cho bà ở trong một cuộc tình ái đầm ấm.

Ngày nay, bà thấy nguồn hạnh phúc bà hằng ao ước nó không lại với bà. Bà chẳng thấy một tí gì là say sưa, ngây ngất, nồng nàn, êm đềm như người ta thường tả ở trong truyện cả. Bà không thấy một tí gì là khắc khoải du dương như trong Tuyết Hồng Lệ Sử mà anh chàng Mộng Hà si tình kia đã rút ruột tằm ra những bài thơ đê mê những máu đem tặng người yêu. Bà thấy cái đời bà ngày nay chẳng có một tí gì dính dáng đến những cảnh nên thơ, nên mộng tả ở trong Paul et Virginie, Atala, René, Manon Lescaut … cả.

Bà thấy đời bà ngày nay nó nhạt nhẽo, nó..thường thường thế nào.

Bà xưa kia hằng ao ước người chồng bà sẽ đem tấm lòng yêu của «Paul», của «De Grieux», của Mộng Hà v.v… mà yêu bà ; bà muốn rằng người yêu bà sẽ diễn lại những mảnh tình sử ấy với bà. Ngày nay… ngày nay, chẳng có một tí gì như thế cả...

Từ năm lên sáu, bà đã đi học, bà còn nhớ mang máng rằng từ nhà trường cho đến gia đình, bà chưa hề phải phật ý bao giờ. Chẳng qua một đôi khi cãi cọ với chúng bạn sì sằng rồi lại hòa thuận ngay. Cũng có đôi khi bà đòi những cái quá đáng, hai cụ không cho, nhưng bà mới xị nét mặt xuống chưa kịp khóc thì hai cụ đã phải chiều lòng ngay. Nào có thấy cái gì là bó buộc của tam tòng tứ đức, cái gì là cái vất vả khó chịu của người nội trợ.

Bà biết rằng bà đẹp. Ngoài chiếc gương nó chiếu bóng dáng yêu kiều cho bà thấy, còn bao nhiêu người như cha mẹ anh em chúng bạn đều công nhận thế cả. Bà đã yên trí rằng bà đẹp thì cái người được hưởng cái đẹp của bà ngày nay phải làm sao cho xứng đáng với cái đẹp kia, chứ lẽ nào lại cứ yêu một cách lạnh lùng, trang nghiêm, đều đặn như một cái máy thế này. Bà tuy biết chắc là ông không yêu một ai khác nữa và cũng không chơi bời gì, nhưng cách thức ông đối xử với bà vẫn khiến cho bà ngờ rằng ông không yêu bà, bởi vì theo sự hiểu biết của bà, ái tình đâu có «buồn tẻ» như thế. Bà hờn duyên, tủi phận; bà cho là chồng bà coi thường, coi khinh bà như món đồ chơi, hay cái máy đẻ con thôi.

Trong chín năm trời, bà làm bạn với ông, ông đối đãi với bà như thế cả: hòa nhã, điềm đạm, âu yếm nhưng không bao giờ sự âu yếm ấy nó lộ ra ngoài bằng những lời nói nồng nàn, cử chỉ sốt sắng. Có chăng chỉ một lần khi có mang thằng Minh. Bà còn nhớ hôm ấy lắm. Sau bữa cơm chiều, bà thấy trong người mỏi mệt, bà ngồi dựa mình vào chiếc ghế bành kê gần cửa sổ. Bỗng ông lại gần sẽ để tay lên bụng bà mà hỏi:

– Em hình như buồn bã, mỏi mệt lắm phải không?

– Nó đạp luôn mệt quá.

Rồi bà âu yếm cầm chặt lấy tay ông để lên bụng:

– Này cậu chờ xem, nó đạp mạnh đáo để.

– Ừ mới có sáu tháng, mà đã đạp mạnh thế, sau này, chắc nghịch lắm. À, có nhật trình mới, anh lấy em xem đỡ buồn nhé.

– Em mệt quá, hoa mắt, không muốn đọc.

– Thôi để anh đọc cho em nghe.

Lần ấy là lần đầu ông xưng hô anh em với bà, lần ấy là lần đầu ông đọc báo cho bà nghe. Lần ấy là lần đầu, ông bỏ cái lệ: Sau bữa cơm tối vào buồng giấy xem sách cho đến 11 giờ khuya. Lần ấy là lần đầu ông nói một lời âu yếm sốt sắng, có một dáng điệu trìu mến, yêu thương nồng nàn nó khiến cho bà cảm động quá. Bà sẽ ôm cổ ông, dựa đầu vào ngực ông, đôi mắt lim dim dường như không đủ sức mạnh để nhìn cái ánh sáng hạnh phúc nó chói lọi ở xung quanh mình.

Người vú em đưa một xấp báo lại.

– Em muốn nghe báo gì nào?

Nũng nịu bà sẽ bảo:

– Anh muốn xem thứ gì thì anh đọc cho em nghe

Tuy Vũ-Đại đọc nhanh quá, giọng hơi gay gắt khó nghe lắm, bà chẳng hiểu gì mấy – có lẽ ông chỉ đọc cho mình ông nghe – nhưng bà cũng lấy thế làm thích và bà ước thầm rằng, nếu ông cứ đối xử với bà như thế luôn thì dời bà cũng không đến nỗi «buồn tẻ» mấy, dù rằng chẳng có những trường hợp hồi hộp như trong tình sử. Lần ấy là lần đầu mà ông bỏ một thói quen vì bà. Đối với con người như Vũ-Đại, thế cũng là nhiều rồi. Ví dụ một người xưa nay không thề với ai bao giờ nay gặp việc gì đã phải bất đắc dĩ phải cất lời lên thề, với ta, ta phải cho thế là trân trọng rồi, và cũng phải biết cho rằng kẻ kia vì ta lắm

Bà Vũ-Đại vẫn cho thế là chưa đủ, vì bà không hiểu. Trong ý bà, bà muốn cho người chồng chỉ nghĩ đến bà mà không được nghĩ đến việc gì khác nữa.

Trong ý bà, bà cho ái tình là một việc làm thiêng liêng, kẻ tình nhân phải để hết ý trí, hết sức khỏe vào đấy mà không được nghĩ đến một việc gì khác nữa, dù việc khác ấy cần cho sự sinh-hoạt một gia đình, cần cho sự tiến thân của một đời người.

Phải là một thiếu nữ xuất thân ở một nơi phú quí xưa nay chưa thấy biết một tí sự thực gì về sự sống còn mới có những ước muốn chuyên chế ấy. Nhưng biết đâu đó cũng chẳng là một «Chính thể» (?) tuyệt đối của ái tình, của một thứ ái tình mà ai là người phải lăn lộn với đời không thể có được, hay chỉ có thể có trong khi nhìn ái tình qua những bài thơ thấm thía véo von của nhà thi-sĩ.

Vẫn biết rằng đời này, ta nhiều lúc phải nhờ hồn thơ để quên sự thực, phải cần đến hồn thơ để đưa tính tình ta lên cõi thanh cao, nhưng đem dung hợp ái tình – nói về nghĩa tuyệt-đối – với sự thực là một việc không thể được.

Ái tình cọ xát với sự thực, nó mất vẻ thần tiên đi. Nhà thi sĩ trong khi tình cảm bồng bột đã quên mình là người của cõi đời tục lụy này. Trong đời ta có nhiều lúc ta cũng quên rằng ta không phải trói buộc về miếng cơm, tấm áo nữa, ta tận tụy thờ phụng ái tình, những cái đó, chỉ có thể trong một thời khắc ngắn ngủi – nếu ta không muốn để cho những việc phức tạp ở đời nó đè chết ta. Thế cho nên trong bước đường đời gồ ghề đen tối, ta chỉ có thể giữ được kỷ niệm thơm tho của những phút mê hồn kia mà thôi. Rồi việc đời lại bắt ta phải đăm chiêu, nghĩ ngợi, ích kỷ. Thi nhân cho thế là tầm thường, là đê hèn, nhưng chính thi nhân cũng chỉ ca tụng ái tình trong bài thơ mà không thể đem thực hành cho đời mình được.

Từ bảy giờ cho đến tám giờ ba mươi bà Vũ-Đại được chồng ngồi đọc nhật-trình cho nghe rất lấy làm sung sướng. Chưa đến chín giờ, ông đã giục bà đi ngủ. Ông nâng đỡ vợ vào phòng, coi bộ rất là trìu mến.

Nhưng đến ngày mai, ông hình như đã quên hết, lại cặm cụi làm việc như thường. Mờ mờ sáng đã phóng ô-tô sang Gia-Lâm xem phu đắp đê cùng đi coi xét công việc khắp chốn này, chốn khác mãi hơn mười một giờ mới về. Ăn cơm trưa xong lại đi Sơn Tây ngay.

Bà Vũ-Đại hàng ngày chỉ ao ước tấn kịch kia diễn lại một lần nữa, nhưng hết ngày ấy, sang ngày khác, xuân này qua, xuân kia lại, bà đợi mãi mà chẳng thấy nó lại, chán rồi bà cũng chẳng đợi nó nữa. Bà cho là tấm lòng ông săn sóc bà lúc bấy giờ chỉ vì đứa con trong bụng, chứ chẳng vì gì bà. Ông chỉ coi bà như một cái máy đẻ con thôi. Lòng tức tối căm hờn số phận lại tăng tiến lên.

Sống ở đời, người yêu mình chưa đủ. Phải có tấm lòng mình yêu người nữa. Một tấm lòng mình yêu cũng đủ mãnh lực làm cho mình nhìn đời một cách đầy rẫy lạc thú. Nói rằng con người biết yêu đã tìm được bí quyết sự sống – dù sự sống ấy nó đối với ta có gay gắt đến bực nào đi nữa – cũng không phải là quá đáng.

Nhưng nào ai đã biết tìm chân lạc thú ở tấm lòng mình yêu người mà không quản gì người có yêu mình hay không.

Bà Vũ-Đại sở dĩ phải âm thầm đau đớn là vì bà không hiểu tấm lòng ông yêu bà. Bà cũng không có một tấm lòng yêu để tự an ủi. Bà hiểu sự sung sướng của ái tình ở chỗ được người chiều, chứ không phải ở chỗ mình chiều người. Nhưng dù sao bà cũng không lấy lẽ gì mà buộc cho ông là vị kỷ được, vì bà chưa hề thấy ông đi tìm một thứ tiêu khiển gì ngoài chốn gia đình. Bà chưa hề thấy ông tiêu một món tiền gì to vào mình cả. Mà bà thì muốn tiêu gì, tiêu bao nhiêu, ông cũng chẳng hỏi đến. Trừ cái tủ két ở bàn giấy, ông giữ chìa khoá, còn tiền nong ở tủ riêng để ở nhà thì ông đều giao cho bà cả. Trong chín năm trời, ông chưa hề hỏi bà đã dùng tiền tiêu những việc gì. Sự may mặc cùng sự ăn tiêu trong nhà, bà muốn gì tùy ý.

Nhiều khi ông còn bảo:

– Tôi nhiều công việc lắm, không thể trông coi việc nhà được, vậy mợ cứ tùy tiện muốn sắm sửa thế nào cho vừa ý thì sắm.

Đồng tiền phân bạc, ông đối với ngoài thì suy ly từng tí mà đối với nhà thì bao nhiêu cũng để mặc.

Nhưng một điều Bà vẫn lấy làm bất như ý: Ông đã xếp đặt cho đày tớ đứa nào vào việc ấy, sai suyển là đuổi ngay. Bà xin thế nào cũng không nghe, ông chỉ trả lời vắn tắt một câu: «mợ biết đâu»,

Bà cũng không thể vì thế mà coi ông là một người ác hay một người chồng xấu được, vì những việc ông làm suy đi xét lại, đều có lý cả. Bà phải nhận rằng trong lúc đau, ông trông nom bà cẩn thận lắm, nhưng chỉ trông nom như một người chồng tốt thôi. Ý bà thì muốn ông trông nom cho bà một cách sốt sắng như một người tình nhân âu yếm cơ.