- 5 -
BÀ Vũ-Đại ngồi dựa lưng vào cái đi-văng, ba thấy cái đời bà buồn tẻ, lòng bà lạnh lẽo. Bà oán thầm ông trời đã cho bà một người chồng mà tính nết trái ngược hẳn với tính nết bà.
Bà nghĩ đến những lời chồng nói, bà thấy tức tối khó chịu, bà muốn to tiếng phản đối lại, nhưng lạ một điều là khi đứng trước mặt chồng, bà lại không có cái can đảm ấy nữa.
Cứ trông hoàn cảnh bề ngoài của gia đình này ai mà chẳng cho là hoàn toàn hạnh phúc.
Chồng là một người lỗi lạc, vợ là một vị giai nhân, hai đứa con lại khôi ngô, tuấn tú, thêm giàu có, danh giá. Sự ao ước của người đời tưởng thế cũng là mãn nguyện. Mà ông trời ban cho đến thế tưởng cũng đã là cùng cực rồi. Ai ngờ cái hạnh phúc ấy chỉ là làn men tráng ngoài.
Cái nó làm cho loài người muôn đời khốn khổ là cái lòng ham muốn vô chừng nó ẩn náu ở bên trong. Nó làm cho ta không bao giờ biết tự túc, tự mãn cả. «Được voi đòi tiên», giống người, lúc nào cũng oán trách số phận mà không bao giờ chịu cho hiện tại của mình là đầy đủ.
Phương ngôn Nhật Bản có câu: «un oreiller seul connaît mes larmes». Đố ai dám ngờ rằng những khi đêm khuya thanh vắng, bà Vũ-Đại đã than thân trách phận mà khóc. Chồng như thế, con như thế, danh giá giàu có như thế, còn muốn gì nữa?
Một đôi giày ta đi, người ngoài trông bề ngoài vừa vặn xinh xắn lắm, đã vội cho là vừa vặn xinh xắn và ban khen cho bọn thợ giầy, chứ bề trong ta thấy đau đớn, nhức nhối có ai biết đấy là đâu.
Nhìn kỹ hai vợ chồng nhà này, ta mới có thể biết đến chỗ bí ẩn nó đã gây ra những nỗi buồn cho bà Vũ-Đại.
Ông Vũ-Đại trông cứng cỏi bao nhiêu thì bà Vũ-Đại lại mềm mại bấy nhiêu. Một bên là biểu hiệu rõ rệt của nghị lực, của can đảm thì một bên là cái hình ảnh lọc lõi của nhu mì, của đa cảm.
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Người ta cứ bảo các cụ ưa văn chương sáo chỉ học mót, không biết tả chân, nhưng nếu ta trông kỹ bà Vũ-Đại, ta phải nhận rằng các cụ có con mắt quan sát. Câu ấy thật đã tả rõ được bà Vũ-Đại từ tinh thần cho đến hình thức.
Bà, nước da trắng rất mịn. Hai con mắt dài, đen nháy khi lờ đờ, lờ đờ vì hai mi mắt nó chậm chạp quá hình như mỏi mệt. Nhưng nếu có cái gì làm cho trái tim kia nóng lên thì sẽ được thấy một cái nhìn ấm áp của đôi con mắt nhưng mà ánh sáng như muốn bao phủ lấy những vật bà nhìn. Mớ tóc hơi hung hung rẽ lệch, xoa xuống một cái trán phẳng phiu vuông vắn. Bà ưa mặc đồ trắng, nên nước da đã trắng lại càng trắng thêm. Nếu có kẻ cho cái trắng hồng hào của người đàn bà là đẹp, trông thấy bà cũng phải đối ý kiến ấy đi mà cho nước da trắng xanh là đẹp đẽ nhất. Nó làm cho rõ rệt một cái đẹp nghiêm trang, mơ màng cái đẹp riêng của người đàn bà Á-đông.
Bà Vũ-Đại khổ người thon, hai bàn tay nhỏ, ngón tay nhỏ, nuồn nuột khí dài. Nhưng móng tay không cần bôi son, cũng đỏ như phẩm.
Toàn thể trong các bộ phận cái gì cũng «mảnh dẻ» quá, mỏng manh quá. Nếu ta trông thấy bà đứng cạnh chồng, ta phải tự hỏi:«Sao ông Tạo vật éo le lại đem đặt sợi dây tam-cố cạnh sợi tơ, lại đem một thứ kim loại rất cứng để cạnh một thứ rất mềm. Hai vợ chồng thật khác hẳn nhau từ tính tình cho đến hình thức.
Một bên thật rắn, một bên thật mềm. Nếu hai chữ đàn ông, đàn bà mà đủ là cái bảng thống kê những tính chất riêng thì ta có thể nói một bên thật «đàn ông» một bên thật «đàn bà».
Xưa nay bà Vũ-Đại vẫn tâm phục chồng là người khá, có nhiều tính tốt, rất là thương vợ quí con. Nhưng đó chỉ là một người chồng tốt, một người chồng «hiện tại» của bà, chứ không giống cái người chồng mà bà hằng mơ ước trong khi còn con gái. Bà thấy ông không đúng tư cách như người chồng ở trong mộng tưởng bà xưa kia.
Xét tâm lý một người đàn bà nhiều tình cảm, lại xét đến cái mầm mọi sự cảm giác, cái đời mà họ được mãn nguyện nhất chỉ là cái đời khác ở trong mộng tưởng họ những lúc mơ màng, bởi vì chỉ có mộng tưởng mới có thể cho họ được vừa ý thôi.
Lúc còn ở với cha mẹ, trong những lúc canh khuya trằn trọc, hay trong những lúc mà tạo vật sinh ra những trạng thái hoặc vui, hoặc buồn, có ảnh hưởng đến sự cảm giác của con người ta, họ đều nghĩ đến tương lai, nhưng tương lai họ chỉ dựa vào tình cảm mà phát ra, chứ họ không nhìn nhận gì đến sự thực ở đời. Tuy tùy theo trình độ trí thức, tùy theo tính tình từng người, cuộc đời trong tiểu thuyết đều là những cái mẫu mà họ đem «pha-phách» thay đổi để đào tạo nên một vị hôn phu hợp với ý muốn của họ. Tuy họ có những biệt kiến khác nhau, tuy sự gặp gỡ mỗi người muốn một khác – hoặc ở một túp lều trong rừng thẳm, hoặc ở nơi gác tía lầu son chốn đô thị, – tuy những vị hôn phu «đẻ» ra ở trong mộng ấy da mặt đen, trắng, thân thể gầy, béo khác nhau, nhưng đại để vị nào cũng có một tấm lòng yêu cực điểm, phải yêu theo lòng muốn của họ. Người yêu « trứng nước » ấy phải sống vì họ, chỉ sống vì họ thôi. Một hơi thở, một bước đi cũng là vì họ cả, họ tự đặt mình làm trung tâm điểm của cuộc đời người yêu mà sai khiến mọi sự hành động. Có khi người yêu của họ làm những việc phi thường, nhưng đó không phải là vì tấm lòng danh dự, vì quan niệm về nghĩa vụ sai khiến mà chính là muốn cho vợ được danh giá. Có khi người yêu của họ cũng lăn lưng ra mà vật lộn với đời, nhưng đó không phải là vì cái chỉ muốn làm nên sự nghiệp mà chỉ là đi kiếm cho thật nhiều về cho vợ được sung sướng. Có khi họ tưởng tượng họ ngoảnh mặt đi, người yêu của họ cũng «lỡ » không trung thành với họ, nhưng khi đã ngoảnh mặt lại, họ chỉ dơ ngón tay út thì kẻ kia lại hối hận mà trở về van lơn, lạy lục, chiều chuộng họ ngay. Họ cho họ là hình mà kẻ kia là bóng, tính nết kẻ kia chỉ là cái bóng sinh ra bởi cái hình, những sự ước mong của họ. Họ tưởng tượng cuộc đời là một chuỗi ngày thần tiên đầy những hạnh phúc mà trời đã dành riêng cho những hạng người «riêng» như họ.
Tuy cuộc đời mộng ấy còn phảng phất nay thế này mai thế khác, nhưng nó cũng đã thành hình rồi. Họ nuôi mãi, nuôi mãi cho nó lớn ở trong thần trí bọ.
Họ đang say giấc ngủ ở trong rừng đầy những hoa thơm cỏ lạ, họ đang sống ở trên cái mền bông ấm áp, êm đềm như thế, bỗng mây âm dương xoắn lấy họ, ném họ vào cõi đời lạnh lẽo khô khan này mà thực tế không có chút gì giống với những mơ tưởng thần tiên trong mộng cả.
Cái đêm tân-hôn, họ bừng mắt dậy, bâng khuâng như mất lạng vàng mười ….
Vết thương lòng sinh ra từ đấy.
Bà Vũ-Đại tức Nguyễn-thị Vân-Nga cũng phải đeo vết thương lòng ấy.
Hai thân bà là người tai mắt giàu có ở đất Hà-thành. Tiền tài cùng danh giá tự tay làm ra, cho nên hai cụ biết người, biết của lắm. Sự từng trải đã khiến cho hai cụ biết rõ chân tướng việc đời. Hai cụ xét đời không xét bằng con mắt của Vân-Nga. Mà bằng một con mắt có can đảm nhìn những sự thật, có trác kiến biết nhận chân mọi lẽ cần dùng cho sự sống, biết đánh giá chân giá trị của người và vật. Thế cho nên khi Vân-Nga 17 tuổi, Vũ-Đại đến dạm thì hai cụ vui lòng gả ngay.
Lúc bước chân về nhà chồng, trong trí Vân-Nga còn chứa chất đầy những mộng đẹp. Nàng đang cho cuộc đời là đầy những thần tiên lạc thú thì ôi thôi! sự thực nó khác hẳn. Tuần trăng mật chưa được quá nửa tháng thì đức lang quân vốn là một tay doanh nghiệp những nặng về tiến thân coi thường tình nhi nữ, đã xách vali bôn ba nay tỉnh nầy mai tỉnh khác. Những khi canh tàn vắng vẻ, ngồi đối diện ngọn đèn, nàng đem so sánh cuộc đời mộng với cuộc đời ngày nay, nàng thấy nó khác nhau một trời một vực, nàng tưởng chừng như ở trên chín tầng trời ngã xuống. Mối hận lòng sinh ra từ đấy..