Phần Thứ hai - 1 -
LÊ-THÀNH-VÂN là dòng dõi một chi hào cường ở chốn thôn quê. Cụ thân sinh ra ông làm lý trưởng, gia tư vào bực khá giả.
Ở chốn đình trung, cụ là ngưòi có vai vế, nhưng khi xuống huyện, lên tỉnh, cụ thấy cái thân cụ phải lụy từ anh lính lệ lụy đi. Cụ lại thấy cái bề ngoài của các quan lại cùng những ông Tham, ông Phán nó mới danh giá, sung sướng làm sao. Cái hình ảnh rực rỡ ấy cứ luôn luôn ám ảnh cụ, khiến cho cụ thèm thuồng mong ước. Vì thế nên khi Lê-Thành-Vân lên bảy, cụ quyết chí cho con lên tỉnh học chữ Tây, không cho học chữ nho. Cụ ao ước một ngày kia con cụ sẽ làm nên ông nọ, ông kia khiến cho cụ được cái hãnh diện xưng với bà con: «cháu Tham, hoặc cháu Phán nó nhà tôi» mà không phải dùng đến cái tên rất tầm thường: «thằng Cả hay thằng bố cu» nữa. Cụ không tính đến chỗ hoàn cảnh một ngày kia có thể thay đổi tâm tính con người, cũng ví như một thứ cây sinh sản ở ôn đới mà đem trồng sang nhiệt đới thì phải cần đến sự vun trồng rất cẩn thận mới không bại. Cái hoàn cảnh ấy sẽ có ảnh hưởng rất sâu xa đến cuộc đời sinh hoạt sau này, nó bắt người trong cuộc phải theo nó, chứ khó lòng mà bắt nó theo ý muốn của ta được.
Lúc Lê-Thành-Vân lên lớp nhất trường Sơ-học Pháp Việt, cụ liền cưới vợ cho. Cụ không xét đến cái thuyết «thời đại nào, kỷ cương ấy».Tục tảo hôn sẽ không thích hợp cho một người đã bước chân vào một cuộc đời mới. Tuy đó là lòng cha mẹ thương con muốn cho con được yên bề gia thất, nhưng đó là một tấm lòng thương nó rất trái ngược với thời thế. Mà đã trái ngược với thời thế thì nó chỉ đem lại cho ta những thất vọng.
Lê-Thành-Vân học rất chăm, tính nết rất thuần cẫn. Nhưng sự học chăm chỉ, tính nết thuần cẫn cũng chưa đủ sức mạnh để đưa ta vào con đường sáng sủa đưọc. Muốn cho có đủ hiệu lực phải cần có một nền giáo dục gia đình rất chắc chắn nữa. Gia đình giáo dục, thì Lê-Thành-Vân không có.
Lê-Thành-Vân đỗ bằng Sơ-học Pháp Việt rồi vào trường Bưởi cùng một khóa với Vũ-Đại. Khi Vũ-Đại gặp gia biến phải thôi học thì Lê-Thành-Vân vẫn đeo đuổi cho đến khi đỗ bằng Thành-chung rồi vào học trường Cao-đẳng Công-Chính. Tốt nghiệp ở trường ra, ông được bổ đi cán sự Nam-Định.
Thế là ông đã làm đầy đủ trách nhiệm một kẻ thư sinh, đạt được mục đích vinh thân phì gia. Mà cụ thân sinh ông cũng được toại nguyện. Nhưng, mỗi lần Lê-Thành-Vân trèo lên được cái thang công danh một bực là mỗi lần ông thấy biết thêm hoàn cảnh gia đình không thích hợp với ông một chút nào cả. Điều ông tức bực nhất là sao cha mẹ lại lấy vợ cho ông sớm thế, lại chọn cho ông một người đàn bà không đủ tư cách để tô điểm cho cuộc đời mà ông cho là sẽ rực rỡ về sau này. Khi ông còn học trường Bưởi, trường Cao-đẳng, tuy ông cũng một đôi lần đem tâm sự mình than phiền vói cha mẹ, nhưng hai cụ vốn theo cổ tục, lấy điều đạo đức làm trọng, vả lại tin ở thuyết tiền định, nên bao giờ cũng lấy câu: «vợ chồng là duyên số» để an ủi và cự tuyệt những điều xin của ông. Lúc ấy, ông còn phải ăn nhờ cha mẹ, nên ông chỉ uất ức ở trong lòng mà không dám nói gì. Ông chỉ đem lòng uất ức ấy biến thành những thịnh nộ đối với vợ, khiến bà phải nghe lắm câu cay đắng, Những là: «trông chẳng khác con vú em, y con trâu cái v.v …»
Bà Lê-Thành-Vân vốn là người lúc bé đã được hấp thụ một nền gia đình giáo dục, tuy nó chỉ ở trong vòng eo hẹp của mấy chương nữ-tắc, nữ-huấn, nhưng đó là những nền tảng rất bền vững đã làm cho vĩnh viễn được bao nhiêu gia đình Á đông. Bà đã in sâu vào óc đạo thờ chồng, nuôi con, nên dù ông mắng chửi nhiếc móc thế nào, bà cũng nhịn. Hoặc giả một đôi khi, ông làm quá, bà cũng rắp toan dùng một vài câu phải chăng để phân giải, nhưng bà mới mở miệng thì những cái cái tát, những cái đấm vô hồi của ông lại bắt bà im ngay. Ông mới thoạt nghe tiếng nói của bà đã đổ ghét ra rồi, còn hòng nói đàn giải thế nào được nữa. Thôi thế là từ đấy, bà cứ phải câm như hến. Lê-Thành-Vân thấy thế lại càng thêm ghét, cho là đụt, cho là ngu.
Ông đã có những cảm tưởng ấy đối với vợ, nên lúc ông được bổ đi làm, nghĩa là lúc ông đã có thể thoát ly được gia đình về tiền tài, ông nhất định nói với cha mẹ xin bỏ vợ. Hai cụ liền thịnh nộ:
– Sao mày bạc bẽo thế, mới đỗ đạt đã định rẫy vợ. Ăn nằm với người ta đã ba con, mày còn nỡ nói thế à? Này tao bảo thật cho mày biết, nếu mày có mê con đĩ tây, đĩ tàu nào, mày đem nó đi đâu thì đem, chứ đừng vác về nhà tao. Tao chỉ biết có con Cả là con dâu tao mà thôi.
Một phen, hai phen, Lê-Thành-Vân cầu khẩn với cha mẹ, nhưng phen nào, ông cũng vẫn được nghe những lời nghiêm huấn rành rành như thế cả. Ông đành chịu bó tay trước sự bền lòng của cha mẹ. Nhưng may thay, thú phong lưu thành Nam đã đền bồi cho ông thập bội. Đã có tiền, lại khéo nói, lại cũng giỏi trai lại là ông Tham, ông thật đã đủ điều kiện để trở nên một tay cự phách trong cõi yêu hoa. Ông lại là người khôn khéo biết đem dấu chân tướng của mình đi, chỉ đem ra đối phó với đời bằng những lời đường mật, bằng cái vẻ mặt xinh xắn trung hậu là những cái mà người đời yêu chuông nhất, yêu chuộng ngay, chẳng cần xét xem ở bề trong có ẩn dấu những gì.
Đã biết bao cô mê mệt về cái danh hiệu quan Tham và những lời nói như rót vào tai, cùng là cái bộ mặt giỏi trai lúc nào cũng tươi cười. Lắm cô đã đem hiến cho ông cả của, cả người, cả trái tim nữa.
Mà kể ông giỏi trai thật. Nước da đã trắng, miệng cười đã có duyên, khuôn mặt đã tròn trĩnh, lại đem phủ ngoài cái khổ người vừa phải một bộ quần áo rất sang, thì gái nào mà chẳng phải mê.
Lê-Thành-Vân lại khéo luyện cách đi đứng cho khoan thai, lời nói lại khiêm tốn, nên các bà mẹ của những cô con gái chưa chồng, khi đã được biết ông, đều phải ước thầm trong bụng:«Giá con gái mình rồi sẽ lấy được một người chồng như thế». Nói đến đôi con mắt của ông thì tuyệt. Ta hằng nghe một tình nhân của ông bình phẩm về đôi mắt của ông. «Gớm, trông con mắt tình lắm, đĩ lắm, đáng ghét lắm»
Nhưng cái ghét đây là một thứ ghét «yêu» ghét «liếc» yêu rằng nó tình thế kia mà sao nó không ở mãi với mình, tiếc rằng nó đĩ thế kia nên nó hay thay đổi.
Dưới làn lông mày rậm và dài, đôi con mắt hoạt động, toả ra những chớp nhoáng rất huyền diệu nó gợi lên những làn sóng tình rất ấm áp ỏ trong tim phái yếu. Ông đã biết sự đắc thắng về đường tình ái của ông một phần lớn là nhờ ở đôi con mắt thôi miên, nên ông càng cố công luyện cho nó ngày một thêm sức mạnh. Ông soi gương, ông tập làm sao cho đôi mắt có thể mô tả ra những vẻ vui, buồn, yêu mến, say sưa cho ăn theo với vẻ mặt của ông, khi ông muốn làm ra có những cảm giác như thế.
Kể ông cũng khéo dụng công thật. Ông đã làm cho con mắt ông, vẻ mặt ông thoát ly khỏi sức tự nhiên sai khiến của trái tim, của linh hồn để trở thành tay sai đắc lực cho ý muốn của ông.
Thật ra, ông cũng là một tài tử.
Các hội từ thiện đã bao phen nhờ về biến hoá ấy mà thu được những món tiền khá to vào quỹ.
Những buổi diễn kịch làm phúc, một khi đã có ông giúp, thời thường là kết quả mỹ mãn.
Từ sân khấu kịch trường ra sân xã hội, ông đã khéo dùng tài đóng kịch làm cho lay động lòng người. Thứ nhất đối với phái đàn bà là phái có lắm cảm tình kỳ lạ, cái tài ấy lại càng đắt dụng lắm.
Ông đã ghét vợ, lại ham vui, nên ông đi làm đâu cũng không cho vợ con theo. Có ai hỏi đến, ông trả lời một cách nửa song, nửa nga:
– Vợ với con, chán chết.
Rồi ông nói lảng sang chuyện khác. Thế cho nên nhiều cô cứ tưởng lầm rằng ông chưa có vợ, hay hoặc giả có, nhưng ông đã bỏ rồi. Cuối tháng lương, nếu có dư dật, ông cũng gửi ít nhiều về nhà, mà lỡ quá tay thì thôi. Cái «thôi» phần nhiều hơn cái «có». Vợ ông cũng chẳng hề rỉ răng, cứ một niềm hiếu kính ở nhà với bố mẹ chồng, buôn bán và trông nom con cái.
Nhiều người cho thế là đụt, nhiều người lại cho thế là hiền. Cái tiếng khen chê ở cửa miệng thiên hạ còn biết lấy gì làm bờ bến, khiến ta tin cho được. Chẳng qua họ cũng như một kẻ nhìn qua lỗ khoá, thấy môt cô con gái khi quay lưng lại, đằng sau trắng trẻo vội tấm tắc khen là đẹp, chứ có biết đâu khi quay mặt lại eo ơi! nó xấu như ma lem. Ấy đại để sự khen chê ở đời chỉ dựa vào một phương diện như thế cả, chứ mấy ai đã chịu kiên gan chờ thời gian vạch cho rõ trắng đen. Mấy ai đã chịu suy xét rằng chân lý thường bị bọn người lợi dụng đem vo tròn bóp bẹp, mấy ai đã chịu đặt mình cao hơn địa vị thằag lùn đi xem chèo, đứng đằng sau nghe người đằng trước reo thì cũng reo, chứ có biết tại làm sao mà mình reo đây.
Yêu nên tốt, ghét nên xấu. Bà Lê-Thành-Vân hiền hay đụt đã có bố mẹ chồng biết cho.