← Quay lại trang sách

- 2 -

VŨ-ĐẠI cùng Lê-Thành-Vân xa cách nhau đã mấy năm, mãi đến lúc Lê-Thành-Vân đổi về Sơn-Tây vì Vũ-Đại có thầu mấy việc nhà cửa trên đó, nên anh em mới lại gặp mặt. Đã là chỗ bạn học lúc nhỏ, lại một đằng làm cán sự, một đằng làm thầu khoán thì thế tất nhiên phảỉ thân nhau.

Lê-Thành-Vân khéo biết lựa tâm tình từng người mà thay đổi cách giao thiệp, nên Vũ-Đại cũng bất ngờ cho là một người khá, đem lòng tin cẩn. Gia dĩ lại là chỗ cố tri, cùng nhau quen biết từ khi còn đá cầu đánh đáo, thời kỳ mà bản tánh con người ta còn trong sạch, nên bao giờ vẫn giữ được một kỷ niệm tha thiết và nồng nàn. Trong đời ta, ta gặp bao nhiêu là bạn giàu sang, sao đối với ta vẫn không khiến cho ta vui lòng bằng được đàm đạo với một người bạn lúc thiếu thời. Bởi vì đó là thời kỳ thần tiên nhất trong đời ta, thời kỳ còn đầy những ảo mộng đẹp đẽ mà ngày nay… ngày nay thực tế đã làm cho tiêu tan đi cả. Ta có khôn hơn, ta có giỏi hơn, nhưng ta không bao giờ còn được tấm lòng bồng bột ngây thơ kia nữa. Ngày nay, sự thực tế khó khăn đã làm cho ta nhơ nhớp tấm lòng băng tuyết kia đi rồi. Ngọn lửa lòng thiêng liêng nung nấu ở trong lò «niên thiếu» đã bị luồng gió «danh lợi» thổi tắt rồi! Ngày nay, ta thấy lòng ta cằn lại, cỗi đi, nên ta thấy những cái gì đó có thể nhắc nhở lại cho ta cái khoảng đời thú vị lúc thiếu thời, ta đối với nó vẫn lấy làm thiết tha trân trọng.

Một đôi lần, Lê-Thành-Vân về Hà-Nội cũng có lại phố hàng Kèn thăm Vũ-Đại, nhưng mỗi lần nào Vũ-Đại mời về nhà riêng chơi thì Lê-Thành-Vân đều từ chối cả. Một người tài hoa phong lưu làm việc ở tỉnh nhỏ, loáng thoáng mới được vài ngày nghỉ về chơi chốn phồn hoa đô hội, có thì giờ đâu đem trói mình vào những cỏ-vê ( corvée ) tẻ ngắt ấy được Đến thăm anh em như thế này, cũng là đã quá lắm rồi.

Tháng 6, năm 1933 Lê-Thành-Vân được đổi về Hà-Nội.

Về được mấy hôm, Lê-Thành-Vân liền lên Thụy-Khê thăm vợ chồng Vũ-Đại. Lần ấy là lần đầu, Lê-Thành-Vân được biết mặt vợ bạn. Cái nhan sắc tốt tươi của bà Vũ-Đại khiến cho Lê-Thành-Vân phải giật mình sửng sốt.

Trong một phòng khách rực rỡ quét vôi màu lơ, những ngọn đèn điện phủ abat-jour mùi hương nhạt toả những ánh sáng dịu dàng xuống mặt người đẹp khiến cho đôi má như có phả một làn phấn hương lộng lẫy.

Bà Vũ-Đại mặc toàn đồ nhiễu trắng. Thoạt mới ở sân nhìn vào, trông phảng phất như con bướm trắng đang tha thướt ở vưòn đào. Trong lòng Lê-Thành-Vân thấy hồi-hộp lạ thường. Đến lúc vào đến phòng khách, thấy những đồ đạc quý giá, bày biện rất có mỹ-thuật nó như làm tôn cái sắc đẹp cho mỹ nhân, khiến cho Lê-Thành-Vân lại càng thêm mê mẩn.

Câu chuyện có vẻ thân mật ngay:

– Bác mới về đã thuê nhà ở phố nào chưa?

– Chưa, tôi còn ở tạm nhà anh em.

Vũ-Đại bèn quay lại hỏi vợ:

– Này mợ, cái nhà gác của me ở phố hàng Bún, chủ cũ dọn đi rồi, bây giờ đã có ai thuê chưa?

– Chưa, cái nhà ấy khí hẹp, nếu đông người thì chật.

– Thưa bác, tôi chỉ có một mình với đứa đầy tớ thôi

– Nếu thế thì vừa lắm, cái nhà ấy làm theo lối Tây, sạch sẽ, lại có trần, mùa hè này ở thì mát lắm.

– Thế bác không đem bác gái và các cháu về à?

– Không, tôi để các cháu và nhà tôi ở nhà quê với cụ tôi.

– Thế sao bác không đem bác gái cùng các cháu ra đây có phải vừa vui, vừa tiện việc học hành không?

Vũ-Đại vô tình hỏi làm cho Lê-Thành-Vân có vẻ ngượng. Lại thấy bà Vũ-Đại như để ý nhìn mình khiến càng bối rối, Lê-Thành-Vân bèn nói xuôi:

– Nhà tôi còn phải ở nhà quê, trông coi vườn ruộng. Các cháu còn bé lắm, cụ tôi không muốn cho các cháu đi xa.

– Bác có mấy cháu?

– Ba, một trai, hai gái.

– Cứ như ý tôi thiển nghĩ, trừ phi cảnh ngộ bắt buộc chẳng kể, còn dạy con thì không ai bằng cha, trông coi con không ai bằng mẹ. Muốn cho hoàn toàn, hai sự săn sóc ấy phải đi đôi với nhau. Không có cái gì làm cho đứa trẻ sung sướng bằng sống ở dưới con mắt âu yếm của cha mẹ. Giá bác cứ cho bác gái cùng các cháu ra ở cả đây, có phải tiện không? Trong những thì giờ nhàn rỗi, bác sẽ có một cách tiêu khiển rất thú vị và rất có ích cho các cháu. Đương lúc kinh tế, thóc rẻ như thế này ruộng vườn phỏng có lợi lộc là bao.

Lê-Thành-Vân nghe bạn nói có ý thẹn, bèn đáp:

– Tôi cũng nghĩ như thế, nhưng cảnh ngộ tôi có nhiều điều bất như ý. Nhà tôi tính khí ương ngạnh, kỳ quái, cử chỉ thô lỗ, đem ra đây cũng có lắm điều bất tiện.

– Tôi chả biết bác gái người thế nào, nhưng cứ bình tĩnh mà xét những cái ấy chẳng có gì là đáng để tâm. Sự cốt yếu là cần gây lấy một cuộc đời tương lai hạnh phúc cho các cháu. Còn như những cái về hình thức cùng là những tiếng ở cửa miệng thiên hạ, chẳng nên nghĩ đến. Ấy, tôi cứ lấy tình thân mà nói, bác thử nghĩ xem có phải không?

– Vâng, bác nói thế thì chí lý, để tôi liệu xem sao.

– Tôi cho ở đời này không có cái gì làm cho ta sung sướng bằng hạnh phúc gia đình. Tôi đi đâu về tới nhà thấy các cháu vui đùa, tôi thấy tôi trẻ lại, quên bẵng cả những khó chịu trong công việc.

Vũ-Đại nói đến đây liền quay lại bảo vợ:

– Mình vào buồng học gọi các con ra chào bác.

Như hai con ngựa bất kham người ta đem giam vào chuồng, nay bỗng được thả lỏng, thằng Minh, thằng Bích hét từ trong buồng hét ra. Gian nhà đang yên tĩnh bỗng trở nên ầm ĩ bởi những tiếng cười đùa của chúng nó.

– Kia các con ra chào bác đi.

– Lạy bác ạ.

– Lạy bác ạ.

Vũ-Đại cười giới thiệu:

– Đây tôi xin giới thiệu với bác, Vũ-Minh, Vũ-Bích hai cậu học trò dốt nhất trường Lycée, nhưng nhờ trời lại chiếm được giải vô địch về khoa đùa nghịch.

– Ồ, em còn được Accessit de lecture cơ mà.

– Ồ, em còn hơn thằng Paul, thằng Léon, thằng Louis vô khối là đứa.

– Ừ thì bây giờ chưa dốt nhất, nhưng thày nói trước đi thế thì vừa, chứ cứ biếng học, ham chơi mãi thì rồi cũng có một ngày kia phải đội sổ.

Hai đứa đồng thanh cãi:

– Em không bao giờ chịu đội sổ cả.

– Không đội sổ, nhưng cũng chỉ hơn độ một thằng. Thôi không muốn đội sổ thì vào học đi.

Hai đứa tiu nghỉu vào buồng học.

– Hai cháu trông thông minh tuấn tú lắm, thật là giống nhà.

Lê-Thành-Vân vừa nói, vừa nhìn bà Vũ-Đại rồi tiếp:

– Nhưng sao bác lại cho cháu vào học Lycée? Thế không cho chúng nó học quốc ngữ à? Tôi thiết tưởng trẻ con nước nhà bây giờ cần phải học quốc văn lắm chứ? Quốc văn, ấy mới là chữ của nước nhà. Vả lại ta đem so sánh chữ quốc ngữ bây giờ với hai mươi năm về trước thật đã tấn tới nhiều lắm. Có thể đủ dùng, cho sự học phổ thông.

– Tôi cũng vẫn biết thế, chữ quốc ngữ mới là tiếng mẹ đẻ. Mà một nước muốn cho ra nước cần phải có một thứ chữ riêng của mình để truyền bá tư tưởng cho được phổ thông đến quần chúng. Tôi vẫn biết rằng một người muốn cho ra người trước hết phải trau dồi tiếng mẹ đẻ của mình. Nhưng cứ bình tĩnh mà xét thì quốc văn còn thiếu chữ, còn non lắm, chưa đủ mềm dẽo, sâu xa để tả một cách rõ rệt những sự vận động của tư tưởng. Muốn cho quốc văn ngày thêm phong phú, ta phải dùng chữ Tây và chữ Tàu để bổ khuyết thêm vào. Vậy học chữ Tây, chính là muốn thâu thập lấy những tinh hoa của nó để bồi đắp cho quốc văn. Học chữ Tây vói mục đích ấy thì hại gì. Tôi sở dĩ cho cháu vào học trường Lycée là vì tôi xét thấy chương trình học ở các trường sơ đẳng bây giờ chậm chạp lắm. Thứ nhứt từ ngày đặt ra cái bằng Sơ-học Yếu-lược. Vào trường Lycée các cháu chịu khó học thì bảy, tám năm đậu tú-tài. Mà học ở trường Pháp-Việt bảy, tám năm chỉ đậu được cái bằng Cơ-thủy.

– Có thế.

– Tuy cháu học ở trường toàn chữ Tây, nhưng về nhà, tôi và nhà tôi vẫn cố dạy cháu quốc văn đấy chứ. Bao giờ tôi cũng cho cái đó là cần nhất, bởi vì một người Việt-Nam không giỏi tiếng Tây, không giỏi chữ Nho, còn có thể bỏ qua đuợc, chứ người Việt-Nam mà không giỏi tiếng Việt thì quá lắm.

Lê-Thành-Vân còn đang muốn ngồi nữa để ngắm dung nhan người ngọc thì đồng hồ đã đánh chín tiếng. Lê-Thành-Vân đành phải đứng dậy cáo từ.

Lúc vợ chồng Vũ-Đại tiễn Lê-Thành-Vân ra đến cửa thì ông dùng hết sức điện trong mình để vào cái nhìn bà Vũ-Đại như có ý bảo: « Tôi về, nhưng còn để quả tim lại chốn này»

Lúc bắt tay từ giã, Vũ-Đại lại ân cần dặn:

– Sáng chủ-nhật, thế nào cũng xin mời bác lại xơi cơm với vợ chồng tôi nhé. Chỉ có cô chú nó cùng các cháu. Toàn người nhà cả. À, còn cái nhà có thuê không thì lại xem.

Lê-Thành-Vân nhìn bà Vũ-Đại một cách đắm đuối rồi sốt sắng trả lời:

– Thôi bác gái đã nói thế là đủ rồi. Bác cứ thưa với hai cụ để cho tôi thuê, rồi nay mai tôi dọn lại.

Bà Vũ-Đại bèn nói:

– Không, bác cứ lại xem cho kỹ càng thì hơn. Kẻo sau này có điều gì không vừa ý chăng?

– Đâu dám, bác đã nói thế thì còn có điều gì không vừa ý nữa. Mà vừa ý với không vừa ý thì có làm sao.

Lời nói thì thế, nhưng những cái nhìn và dáng điệu lại ngụ một ý riêng nữa: «Mỹ nhân dù có bắt phải ở nơi tăm tối thì cũng xin vui lòng, có dám trách móc gì đâu».

– Tôi thì thường ngày bận việc – Vũ-Đại nói – nhưng thứ năm và chủ nhật, các cháu đươc nghỉ, nên tôi cũng nghỉ để chơi với các cháu. Vậy hôm ấy, bác có rỗi mời bác lại chơi.

Lê-Thành-Vân vớ ngay lấy cơ hội tốt:

-Xin vâng. Ở Hà-Nội một mình hiu quạnh, chẳng đến chơi với hai bác, thì còn đi đâu. Tôi chỉ sợ làm phiền cho hai bác thôi.

– Có cái gì là phiền.

Lúc Lê-Thành-Vân ra tới cổng, ông còn ngoảnh lại nhìn xem bóng hồng còn tha thướt ở hiên nữa không nhưng lúc ấy bà Vũ-Đại đã trở vào nhà rồi, nên chỉ thấy những cây cùng lá và cái nhà cao lừng lửng dưới bóng đèn.

«- Đẹp, đẹp thật! Sao lại có con người đẹp như thế? Có hai con đã lớn mà còn tình thế, không biết lúc trẻ thì còn đẹp đến thế nào? Hai con mắt mơ màng thật là cả một vũ trụ, thằng Vũ-Đại thật tốt phúc!»

Lê-Thành-Vân vừa đạp xe-đạp vừa lẩm bẩm như thế.

Sở dĩ Lê-Thành-Vân đứng trước mặt bà Vũ-Đại là vợ một người bạn mà có những cảm giác ấy, những cử chỉ ấy là do một thói quen của ông từ trước đến nay bất cứ đứng trước mặt một người đàn bà đẹp nào, ở vào địa vị nào, ông cũng đem lòng ao ước ngay. Ông không hề bao giờ có tự hỏi

«- Ta thật có thật yêu người ấy không? Nếu thật yêu, thì lòng yêu ấy có ở con đường chân chính không?»

Nên lấy nghĩa tuyệt đối của Ái tình mà nói thì đó là sự hòa hợp của hai trái tim, sự hiểu biết của hai linh hồn. Nhưng Lê-Thành-Vân thì không cần hỏi đến trái tim đến linh hồn. Cái mà Lê-Thành-Vân gọi là ái-tình chỉ là sự thèm muốn về nhục dục.

Thấy bà Vũ-Đại đẹp, giàu, lại đem lòng ao ước. Chỉ có xác thịt là rung động, bị cám dỗ. Lại nên nhớ còn có tấm lòng tự ái lẫn vào trong ấy nữa.

Cứ thấy đẹp là Lê-Thành-Vân sinh ra tấm lòng yêu cái đẹp, muốn được hưởng cái đẹp rồi giở hết mánh khoé để «chim chuột». Chỉ «chim chuột» thôi.

Lê-Thành-Vân là người khéo đóng tấn kịch đời nên những lời bóng gió, những cử chỉ ám muội kia thường chỉ diễn cho người chủ động biết thôi, người ngoài cuộc không sao xét được. Thành thử có nhiều bà vợ đã «yêu» ông mà đức ông chồng còn nói với vợ:

– Bác Tham Vân tử tế và nhũn nhặn quả! Người lại vui tính. Con người như thế là con người khá, có thể chơi được.

Cứ thấy đẹp là sinh ra tấm lòng yêu cái đẹp, muốn đưọc hưởng cái đẹp. Đó cũng là thói thường của con người ta. Nhưng đó cũng là một chứng cớ nó chỉ rõ cho ta biết linh hồn đã bị xác thịt đè nên.

Nếu nói ái tình chỉ có một mục đích làm thế nào cho thỏa lòng dục vọng thì dùng những gian kế để mê hoặc một người đàn bà chỉ là một việc làm ích kỷ. Mà như thế thì ái tình là ích kỷ.

Những cụộc tình duyên ấy thời thường là ngắn ngủi bởi một khi tấm lòng khao khát đã được thỏa mãn thì ngọn lửa nung nấu ở trong lờng cũng giảm bớt nhiệt độ. Rồi chán nản. Mà từ chán nản đến ruồng bỏ nó cũng không lâu mấy.

Lắm kẻ nói:

– Muốn giữ được ái tình bền chặt, đừng cho người yêu được gần gũi mình.

Lầm.

Hạnh phúc đem lại cho ta bởi ái tình không hẳn ở tấm lòng người yêu yêu mình mà ở tấm lòng mình yêu người yêu.

Đã không yêu thì dù kẻ kia có yêu mình, thì mình cũng không thấy sung sướng mà có khi lại khó chịu.

Lê-Thành-Vân là hạng người chỉ yêu có mình, chỉ muốn cho người yêu mình.

Đàn bà, con gái có tánh nhẹ dạ, thường hay lóe mắt về những cái bóng bẩy bề ngoài. Mấy ai đã chịu để tâm dò xét đến những điều u ẩn ở trong lòng kẻ nói đã yêu mình. Đến khi thời giam làm lòi cái kim ở trong bọc ra, nhiều khi đã muộn lắm rồi. Lúc ấy thì như con thuyền đã bị dòng nước chảy xiết cuốn ra khơi muốn chèo ngược về bến cũng không được nữa.

Lê-Thành-Vân thấy vợ Vũ-Đại đem lòng ham muốn. Cái sắc đẹp kia đã làm cho ông lóe mắt mà quên hẳn tình bè bạn. Ông chỉ thấy có cái đẹp, chỉ nhìn thấy cái sang, cái giàu.

Đạp xe đạp đến cửa trường Bưởi thi xe đè phải một miếng gỗ lớn nò làm cho ông suýt ngã. Nhưng vì cái việc cỏn con ấy xẩy ra mà ông suy nghĩ đến sự thực. Ông trông thấy cái xe đạp Peugeot của mình mà nghĩ ngay đến cái xe Talbot tám máy của Vũ-Đại, cái lâu đài nguy nga ở Thụy-Khê kia. Rồi cảnh một con người cao lớn vạm vỡ, thông minh và cương quyết liền hiện ra trước mắt.

Lê-Thành-Vân thấy mình kém hơn, địa vị mình cũng thấp hơn nhiều. Thế thì còn hi vọng gì dành giật được với người.

Những kẻ đem lòng ham muốn vợ người đều nghĩ ngay đến người chồng chỉ là đi tìm những nhược điểm cua kẻ kia để phỏng đoán xem cuộc tình duyên phác ra trong đầu liệu có kết quả không?

Trong óc Lê-Thành-Vân lúc bấy giờ không có một hi vọng gì

Ví dụ con người kia có lâm vào cảnh nghèo nàn hoặc chồng ngu si đần độn thì bảo còn có chỗ lợi dụng để đạt tới đích. Nhưng đằng này, trái lại sự giàu sang và nhân cách của Vũ-Đại đã như giam bà Vũ-Đại vào một cái thành kiên cố không tài nào lọt vào được.

Lê-Thành-Vân về đến nhà trọ vất cái mũ xuống bàn rồi thở dài:

– Hi vọng gì!

Lúc ấy ông chỉ buồn về nỗi thất vọng, chứ tuyệt nhiên không thấy một sức gì ở lương tâm nổi lên ngăn ông cả, ông cũng không cho việc phản bạn là không nên làm.

Xưa nay, ông chỉ thờ chủ nghĩa sống để cầu vui. Lần nầy chẳng còn là lần đầu ông làm những việc như thế, nên lương tâm không còn điều tắc trách ấy nữa. Ông chỉ biết đó là một việc khó khăn thôi.

Nhưng hi vọng của con người ta lúc nào hết được

Đến chủ nhật, Lê-Thành-Vân trang điểm thật lịch sự để ăn cơm nhà bạn.

Ông ta xét thấy người đàn bà ưa thích cái mặt cười nên khi đến nhà Vũ-Đại lúc nào ông cũng mỉm cười. Từ mười giờ rưỡi cho đến một giờ, ông để tâm dò xét tình trạng nhà bạn, ông dùng những câu rất khéo để dò la ý tứ bà Vũ-Đại cùng thằng Minh, thằng Bích.

Lúc trở ra về, Lê-Thành-Vân biết chắc được một điều là muốn được lòng vợ chồng Vũ-Đại, phải làm thế nào được lòng thằng Minh, thằng Bích. Những tuần lễ sau, lần nào lên chơi, ông cũng mua một vài thứ đồ chơi hoặc kẹo bánh gì cho Minh, Bích.

Vì thế nên hai đứa mến ông. Dần dần, Vũ-Đại cũng có lòng biệt đãi mà coi như bạn tâm giao. Bà Vũ-Đại đối đãi với ông cũng có ý thân mật hơn trước.

Chẳng bao lâu, ông xét ra bà rất thích những tiểu thuyết mơ mộng và ưa đọc thơ ca. Từ đấy, bất cứ có quyển tiểu thuyết và quyển thơ nào xuất bản, ông cũng mua lên biếu bà. Ông lại dò biết bà biết làm thơ và yêu thi sĩ, nên ông cũng cố chắp nhặt làm ít bài thơ nhờ anh em sửa chữa, rồi ông đem nhờ bà Vũ-Đại phụ chính.

Những bài nào, bà đã cho là toàn bích, ông liền vận động cho đăng vào những tờ báo bà mua năm.

Vũ-Đại rất ghét những văn chương mơ mộng, nhưng xét thấy vợ yêu thích thì cũng chẳng cấm, cho rằng chẳng ích gì, nhưng cũng chẳng hại gì.

Bà Vũ-Đại rất thích kịch cải lương nên mỗi khi Lê-Thành-Vân đi diễn kịch giúp cho một hội thiện nào, cũng đem vé đến biếu vợ chồng Vũ-Đại.

Mỗi lần Lê-Thành-Vân biếu Vũ-Đại đều quyên tiền giúp, chứ không chịu nhận không.

Ở trên sân khấu, Lê-Thành-Vân tạo hết tài nghề ra mà phô diễn, lâu lâu lại liếc bà Vũ-Đại một cách ý nghĩa như bảo:

« -Tôi vì mỹ nhân mà diễn đấy, chứ chẳng vị gì với công chúng ngu dốt này đâu».