- 10 . 11 - 12 tháng Chín 1991-Ridgewood, New Jersey
Trong lễ mixa, Sarah không ngừng quan sát Laurie qua khoé mắt. Hình ảnh hai cái quan tài ở chân bàn thờ dường như đã cuốn hút em cô. Nó nhìn trân trân, hai mắt khô ráo, gần như vô cảm với âm nhạc, với các lời cầu nguyện cũng như với bài thuyết giáo. Sarah luôn phải thúc cùi chỏ em mình để nhắc nhở nó phải đứng lên hay quỳ xuống.
Vào lúc cuối lễ, đến khi Ngài Fisher ban phép lành cho hai chiếc quan tài kia, Laurie thì thầm:
- Bố mẹ ơi, con xin bố mẹ tha thứ cho con, con sẽ không bao giờ đi ra đường một mình nữa.
- Này Laurie, Sarah nói khẽ.
Laurie nhìn sang Sarah với ánh mắt vô hồn, sau đó quay đầu đi chỗ khác và với ánh mắt ngạc nhiên nhìn sang đám đông trong nhà thờ. “Tất cả những người này”. Giọng nói trẻ trung của cô như rụt rè.
Ca đoàn cất tiếng bài thánh ca cuối cùng “Thiên ân tối thượng”.
Chen chúc trong đám đông ở cuối nhà thờ, một cặp vợ chồng cũng hát theo, trước còn nhỏ tiếng, nhưng mỗi lúc một lớn hơn. Người đàn ông dường như đã quá quen với việc hát đơn ca. Như thường lệ, ông bị cuốn hút theo và để cho giọng nam trung của mình vang cao hơn mấy giọng kia, gần như chế ngự cả giọng đơn ca yếu hơn. Cử tọa xoay đầu nhìn về hướng ông ta, thán phục.
“Con đã lạc đường, nhưng Ngài đã tìm thấy con…”
Trong nỗi thống khổ và đau buồn, Laurie đột nhiên cảm thấy sự kinh hoàng lạnh cóng chiếm lấy người cô. Cái giọng đó, nó đang vang lên trong đầu, trong cả thân thể của cô.
Mình tiêu mất rồi, mình thật sự tiêu mất rồi, cô âm thầm rên rỉ.
Người ta khiêng các quan tài đi. Các bánh xe của cái bệ mà chiếc quan tài của mẹ cô được đặt trên đó kêu kèn kẹt. Cô nghe các bước chân đều đặn của các phu. Rồi đến tiếng gõ lách cách của chiếc máy đánh chữ.
“Con đã đui mù nhưng Ngài đã cho con nhìn thấy trở lại…”
- Không! Không! Laurie hét lên rồi ngã ra mê mẩn, không còn biết gì nữa.
Mấy chục bạn học của Laurie từ trường đại học Clinton đến dự buổi lễ mixa, cùng vài vị giáo sư. Ông Allan Grant, vị giáo sư Anh văn của cô lúc đó đang có mặt, tỏ ra rất cảm động khi nhìn thấy Laurie té xuống bất tỉnh.
Allan Grant là một trong các vị giáo sư được ưa thích nhất của Clinton. Vừa qua độ tuổi bốn mươi, ông có tóc bộ râu rối tung và cứng, đây đó điểm vài sợi bạc. Đôi mắt lớn thông minh đầy vẻ tinh nghịch là đặc điểm duy nhất của khuôn mặt khả ái hơi dài đó. Dáng vóc lêu nghêu trong cách ăn mặc thoải mái tạo cho ông một vẻ mà rất nhiều nữ sinh cho là hết sức quyến rũ.
Grant thật sự quan tâm đến các sinh viên của mình. Laurie đã đều đặn theo các tiết học của ông từ khi cô đến Clinton. Ông biết rõ quá khứ của cô và luôn tỏ ra chăm chú đến các hiệu ứng phụ bất ngờ liên quan đến việc bắt cóc kia. Những lần mà ông nhận thấy được một cái gì đó, là trong lớp các giờ sáng tác văn chương, Laurie không tài nào tự mình làm được một bài tiểu luận. Mặc dù, các lời phê bình về văn học hay các vở kịch của cô rất xác đáng và hết sức sâu sắc.
Ba ngày trước đây, cô đang ở trong lớp khi người ta gọi cô đến trình diện văn phòng giám hiệu ngay. Vì lớp học cũng gần đến giờ kết thúc và nhận thấy cô quá bối rối, nên ông đã đi theo cô. Khi họ vội vã băng qua sân trường, cô có nói với ông là bố mẹ cô phải đưa chiếc xe của cô lại đây để đổi chiếc của họ. Cô quên cho kiểm tra chiếc mui trần của cô, nên đã mượn chiếc xe của mẹ mình để có thể trở về trường sau lần nghỉ cuối tuần.
- Rất có thể họ bị trễ, cô nói như muốn trấn an chính mình. Mẹ tôi thường nói tôi hay lo cho bà một cách vô cớ. Nhưng bà không được khỏe cho lắm trong khi cha tôi sắp bảy mươi hai tuổi rồi.
Với vẻ sầu não, ông hiệu trưởng báo cho cô biết có một tai nạn xe cộ trên quốc lộ 78.
Ông Allan Grant đã đưa Laurie đến bệnh viện. Người chị Sarah của cô đã có mặt ở đấy. Một vành tóc nâu hung bao quanh một khuôn mặt với đôi mắt xám to lớn chìm trong khổ đau. Ông Grant đã gặp Sarah trong các buổi họp của trường đại học và ông có ấn tượng mạnh trước thái độ che chở Laurie của cô phụ tá bệnh lý.
Nét mặt của người chị liền cho biết là cha mẹ họ đã qua dời.
- Tại lỗi của tôi, lỗi của tôi, Laurie rên lên và gần như để ngoài tai lời nói của chị cô rằng cô không cần phải nhận lỗi về mình.
Ông Grant, với ánh mắt não lòng, nhìn người phụ trách tang lễ dìu Laurie ra khỏi nhà thờ với Sarah đi sát bên. Bước theo sau vị giám mục của giáo xứ, các người khuân vác đi dọc theo hành lang chánh. Tại hàng ghế trước mắt, ông thấy có một người đàn ông chen ra lối đi.
- Xin lỗi, tôi là bác sĩ đây, ông nói bằng một giọng nhỏ đầy uy quyền.
Linh tính bắt ông Allan Grant len ra lối đi để theo họ vào trong một căn phòng hẹp, nơi mà người ta vừa mang Laurie vào trong đấy. Cô được để nằm dài trên hai chiếc ghế đặt sát vào nhau. Sarah mắt không một giọt lệ, đang cúi xuống người em mình.
- Cô hãy để cho tôi, vị bác sĩ nói với Sarah.
Laurie cựa quậy và rên rỉ.
Vị bác sĩ vạch mắt cô ra, sau đó mới bắt mạch.
- Cô ấy đã dần hồi phục lại rồi, nhưng phải đưa cô về nhà ngay. Cô ấy không thể nào ra nghĩa địa được đâu.
- Tôi cũng nghĩ thế.
Allan nhận thấy Sarah phải nỗ lực hết sức mình để giữ bình tĩnh. Lúc đó cô xoay mặt qua nhìn ông và tỏ vẻ như mới thấy ông lần đầu.
- Sarah à, cô để tôi giúp cô đưa Laurie về nhà nghe, tôi nghĩ cô ấy sẽ cảm thấy an lòng khi có tôi đi cùng.
- Ồ, ông thật sự muốn thế sao. Trong một khoảnh khắc, ông thấy lòng biết ơn chiếm lấy chỗ của sự căng thẳng và đau buồn trong ánh mắt cô gái. – Mấy người láng giềng có làm một bữa tiệc nhỏ. Nhưng vì Laurie quá tin tưởng nơi ông, tôi cảm thấy thật sự an tâm.
“Con đã lạc dường, nhưng Ngài đã tìm thấy con…”
Một bàn tay được đưa về phía cô, giơ cao một con dao, một con dao đầy máu, chém qua lại trong không khí. Áo sơ mi và áo blu của cô dính đầy máu, cô còn cảm nhận được cái hơi hâm hấp của nó trên mặt cô. Một cái gì đó vừa rớt xuống đất. Con dao vừa…
Laurie mở mắt ra. Cô đang nằm trên chiếc giường trong căn phòng của mình. Tối đen. Nhưng chuyện gì đã xảy ra vậy?
Cô chợt nhớ lại. Nhà thờ, các quan tài, bài thánh ca.
- Sarah… ơi, cô rống lên, Sarah… ơi, chị đâu rồi?
11
Họ mướn phòng tại Khách sạn Wyndham, trên đường 58 Tây, ngay giữa trung tâm Manhattan.
- Lịch sự lắm, ông ta đã nói như thế. Rất nhiều nghệ sĩ thường đến đây ở. Một nơi thật lý tưởng để có nhiều cuộc gặp gỡ.
Sau khi tang lễ kết thúc, ông ta giữ im lặng cho đến khi về New York. Họ phải ăn sáng cùng vị Mục sư Rutland Garrison, vị mục sư phụ trách chương trình “Giáo Đường Trên Làn sóng” cùng với nhà sản xuất truyền hình. Garri- son sắp sửa về hưu rồi và ông đang chọn người kế nhiệm mình. Mỗi tuần, một nhà truyền giáo được mời tham dự chương trình này.
Bà ta nhìn ông đẩy ba bộ đồ vest khác nhau qua một bên trước khi chọn một bộ xanh đen, một áo trắng và một cà vạt xanh xám tiệp màu.
- Họ muốn một nhà truyền giáo thì họ sẽ thấy một nhà truyền giáo. Trông tôi ra sao bà?
- Hết ý rồi, bà bảo đảm như thế. Đúng vậy. Tóc của ông đã chấm bạc dù cho ông mới hơn bốn mươi lăm tuổi thôi. Ông ta chăm sóc thân thể mình kỹ lắm, luôn đứng cho thẳng người cho nên ông có vẻ như đang chế ngự cả thế gian quanh ông. Ông cũng tập mở mắt cho thật to mỗi khi ông thuyết giảng bằng một giọng hết sức trầm cho đến khi nào việc đó trở thành tự nhiên mới thôi.
Ông loại bỏ ngay cái váy ca rô đỏ trắng mà bà định mặc.
- Không đủ sang trọng cho loại hội họp này, nó bình dân quá đi.
Đây là cách đùa giỡn bình thường của họ mỗi khi ông ta muốn gây ấn tượng với cử tọa, nhưng hôm nay ông ta không có vẻ gì muốn đùa giỡn cả. Bà mới trình một cái váy thẳng bằng vải lanh đen với chiếc áo vest thích hợp.
“Thế còn cái này?”
Ông ta gật đầu.
- Được lắm đấy, ông dè đặt nói. Và nhất là bà đừng có quên…
- Trước công chúng, tôi sẽ không bao giờ được gọi ông là Bic, bà phản đối lấy lệ. Chuyện đó đã không xảy ra từ nhiều năm rồi.
Ánh mắt của ông trở nên nóng bỏng. Opal sợ nhất cái vẻ mặt đó. Ba năm đã trôi qua từ lần cuối cùng cảnh sát đến đặt câu hỏi chỉ vì một bé gái tóc vàng đã than phiền với mẹ cô về ông. Ông luôn chế ngự được hoàn cảnh và buộc các người khiếu nại phải xin lỗi, nhưng sự việc đó xảy ra quá thường và trong quá nhiều thành phố khác nhau. Mỗi khi ông ta có ánh mắt đó, có nghĩa là ông sắp sửa làm bậy đấy.
Lee là đứa bé duy nhất mà họ muốn giữ nuôi. Ngay từ khi ông nhìn thấy con bé với mẹ của nó trong khu thương mại trung tâm, ông luôn bị con nhỏ ám ảnh. Ngày hôm đó ông đã theo dõi chiếc xe của họ về đến nhà, và từ đó thường xuyên qua lại trước cửa với hy vọng nhìn thấy được đứa bé. Vào thời điểm dó, ông và Opal có một chuỗi trình diễn ca hát cùng với chiếc ghi ta trong một hộp đêm tồi tàn trên quốc lộ 17, bang New Jersey. Họ mướn một căn phòng trong một khách sạn cách ngôi nhà của gia đình Kenyon, hai mươi phút đi xe. Có thể xem như lần đó là lần cuối cùng mà họ hát cho một hộp đêm. Sau đó Bic bắt đầu hát các bài thánh ca trong các buổi lễ hội họp về Phúc Âm, kế đến là truyền giáo ở phía bắc bang New York. Một ông chủ đài phát thanh tại Bethelem, bang Pennsylvanie, có dịp nghe ông ta hát và đã giao cho ông việc tổ chức một chương trình tôn giáo cho cái đài nhỏ bé của ông ta.
Điều tai họa muốn cho ông ta phải đi qua đó một lần cuối cùng, đi ngang ngôi nhà đó trước khi khởi hành đi Pennsylvanie. Và Lee lại đứng một mình ngoài đường. Ông nhấc bổng cô lên, đem con bé theo với họ và suốt hai năm trời, Opal luôn phải sống trong cảnh lo âu và ghen tuông mà bà không hề dám để lộ ra ngoài.
Họ đã bỏ con bé được mười lăm năm rồi, như một đống giẻ trước cổng một trường học, nhưng Bic không thể nào loại bỏ hình ảnh của con bé trong tâm trí của mình được. Ông ta vẫn còn giữ bức ảnh của con bé trong cái bóp, và thỉnh thoảng Opal bắt gặp ông ta đang ngắm xem nó, lấy mấy ngón tay chà lướt trên đó. Trong các năm sau này, khi mà thành công đã mỉm cười với ông ta, ông lại bắt đầu lo sợ nhân viên FBI lại đến bắt ông về tội bắt cóc con nít và xâm phạm tiết hạnh.
- Bà có nhớ người đàn bà tại Californie đã bắt giam cha của mình, chỉ vì bà ta đi khám bệnh với một bác sĩ tâm lý, làm cho bà nhớ lại những chuyện mà đúng ra bà ta nên quên mới phải, ông thỉnh thoảng nói với vợ như thế.
Họ vừa đến New York khi Bic đọc bài báo trên tờ Times, tường thuật lại tại nạn xe hơi gây nên cái chết cho hai ông bà Kenyon. Mặc cho Opal van xin như thế nào đi nữa, hai người đó đã tham dự lễ mai táng.
- Này Opal, ông nói, bây giờ chúng ta rất khác xa như ban ngày với ban đêm với hai tên tên hippy trước đây với cây đàn ghi ta mà Lee có thể nhớ được.
Nói cho đúng, họ đã thay đổi rất nhiều. Họ bắt đầu biến đổi bộ dạng của họ ngay ngày hôm sau, khi họ bỏ rơi Lee, Bic đã cạo nhẵn râu và hớt bớt mái tóc. Bà ta thì nhuộm tóc mình màu bạch kim và búi tóc ra phía sau. Họ đến hàng J.C.Penney để mua loại quần áo cổ điển giúp họ hòa lẫn trong đám đông, biến đổi họ thành những người Mỹ trung bình.
- Để phòng hờ có một ai đó trong nhà hàng đã chú ý đến chúng mình, ông cắt nghĩa như thế.
Và cũng vì vậy mà ông không cho phép Opal gọi ông bằng cái tên Bic kia trước mặt người lạ, quyết định kể từ nay ông cũng sẽ gọi bà bằng tên Carla mà thôi.
- Con Lee đã nghe hai cái tên đó từ sáng cho đến tối suốt hai năm trời, ông cắt nghĩa. Vì thế, kể từ nay tôi sẽ là ông Mục Sư Bobby Hawkins cho bất cứ người nào mới quen.
Dù sao đi nữa thì bà nhận thấy ông ta có vẻ lo âu khi bước lên các tam cấp của nhà thờ. Vào lúc cuối lễ, trong khi người đánh phong cầm dạo các nốt nhạc đầu tiên của bài “Thiên Ân tối thượng”, ông đã thì thầm.
- Đây là bài hát của chúng ta, bài hát của Lee và tôi. Giọng nói của ông lớn hơn những người khác. Họ ngồi ở đầu băng ghế nên khi người ta khiêng cái thân bất động của Lee đi ngang mặt họ, Opal phải chụp lấy cánh tay của Bic để không cho ông này đưa tay ra sờ lấy con bé.
- Đây là lần cuối cùng, thế bà đã xong chưa? Giọng của ông thật châm chọc, bước ra đứng trước cửa ra vào của căn hộ.
- Xong rồi đây, Opal trả lời, chụp lấy cái túi cầm tay và bước lại trước mặt ông. Bà phải làm cho ông nguôi giận vì cái nét mặt căng thẳng của ông sẽ dễ bị nhận thấy cách xa cả trăm thước. Bà ôm lấy mặt của ông trong hai tay của mình.
- Anh Bic thân yêu, anh hãy thư giãn đi, bà nói thật nhỏ nhẹ. Anh muốn gây ấn tượng với người ta có đúng không?
Nhưng ông dường như không nghe các lời nói của bà, ông thì thầm:
- Tôi vẫn có thể làm cho con bé hoảng sợ đấy, phải không? Nhưng ông lại bật khóc nức nở, một cách ngon lành.
Trời ôi, tôi điên rồi.