← Quay lại trang sách

- 18 - 19 -

Khi tối hôm đó Sarah về đến nhà, thấy thơ từ đã được xếp trên bàn nơi cửa ra vào. Sau đám tang, cô Sophie trung thành đã làm cho gia đình từ lâu rồi, có đề nghị là bây giờ chị ta chỉ đến nhà hai lần trong tuần mà thôi.

- Như vậy là quá đủ rồi Sarah vì tôi cũng không còn trẻ trung gì nữa.

Ngày thứ hai là ngày chị đến dọn dẹp. Điều đó giải thích tại sao thơ từ đã được xếp như thế, trong nhà phảng phát mùi xi đánh sàn, màn được kéo trong khi đèn tỏa một ánh sáng dịu, tạo một bầu không khí ấm cúng trong các phòng ở tầng trệt.

Đây là thời điểm khổ nhọc nhất trong ngày khi Sarah phải đi vào trong ngôi nhà trống vắng. Trước khi tai nạn xảy ra, mỗi khi Sarah về nhà cha mẹ ăn tối, hai ông bà thường chờ chị để uống một ly khai vị.

Sarah cắn môi lại để xua đi những kỷ niệm đó. Lá thơ trên cùng được gởi từ Anh Quốc. Hẳn đây là của Gregg Bennett. Cô đọc lướt qua sau đó cô mới đọc kỹ hơn. Gregg mới nghe tin vụ tai nạn. Các lời chia buồn của anh ta rất thành thật và cảm động. Anh ta nhắc lại lòng trìu mến mà anh dành cho hai ông bà Kenyon, những thời khắc tuyệt vời mà anh đã trải qua trong ngôi nhà của họ, nói thêm rằng sự thiếu vắng của họ đã là một nỗi khổ cho chị và Laurie.

Đoạn cuối mới thật cảm động.

“Sarah à, tôi đã cố gọi điện cho Laurie và cô ấy đã trả lời với một giọng thật sầu não. Sau đó cô có nói lớn tiếng cái gì đó đại loại như “Tôi không muốn tôi, không muốn” và gác máy liền. Tôi thật sự lo âu cho cô ấy. Cô ấy quá yếu đuối. Tôi biết là chị đang chăm sóc cô ấy, nhưng chị cũng phải hết sức cẩn thận đấy. Vào tháng Giêng, tôi sẽ trở về Clinton và rất muốn gặp lại cô ấy. Chúc chị nhiều điều tốt lành và xin chị nhớ hôn cô ấy giùm tôi. Gregg”

Với đôi tay run run, Sarah thật sự cảm động và chị cầm hết xấp thư vào trong thư phòng. Ngay sáng mai đây, chị sẽ gọi cho Bác sĩ Carpenter để đọc cho ông nghe lá thư này. Chị biết là ông đã cho Laurie thuốc an thần, nhưng con bé có uống không? Máy trả lời điện thoại nhấp nháy. Bác sĩ Carperiter đã gọi cho cô và có để lại số máy cá nhân của ông.

Khi cô tiếp chuyện được với ông trên điện thoại, cô có nói về bức thư của Gregg rồi sau đó lắng nghe ông, tỏ ra rất xúc động khi ông kể lại thật rành mạch lý do khiến ông tiếp xúc với Bác sĩ Justin Donnelly tại New York và tại sao tình thế bắt buộc Sarah không được chậm trễ phải gặp anh ta. Ông cho số điện thoại của cô thư ký Bác sĩ Donnelly. Cô hết sức xúc động khi gọi điện cho cô thư ký và phải nói hai lần số điện thoại của mình.

Sophie có làm một con gà rôti và một dĩa xà lách, cổ họng bị nghẹn lại, Sarah chỉ ăn qua loa vài ba miếng mà thôi. Cô đang uống cà phê thì Bác sĩ Donnelly gọi đến. Ông không có thời gian rảnh trong buổi sáng nhưng có thể tiếp cô vào lúc sáu giờ chiều ngày hôm sau. Cô gác máy, lấy lá thơ của Grègg ra đọc lại, cảm thấy rất cần phải gọi điện cho Laurie. Không ai trả lời. Cứ mỗi ba mươi phút chị gọi lại cho đến khi có tiếng người trả lời vào khoảng mười một giờ. Chính là Laurie và giọng của cô thật vui tươi. Họ nói chuyện với nhau trong vài phút và Laurie mới nói:

- Chị nghĩ sao về chuyện này? Sau bữa ăn tối, em đã lên giường và ngủ một giấc thật ngon và điều em cần làm bây giờ là bắt tay vào làm việc suốt đêm.

19

Lúc mười một giờ tối đêm đó, giáo sư Allan Grant, lên giường nằm và bật đèn nơi đầu giường.

Cánh cửa kính của phòng ông hé mở nhưng ông cảm thấy không khí trong này không đủ mát. Bà vợ Karen của ông, thỉnh thoảng nói đùa với ông là chắc kiếp trước không chừng ông là một con gấu bắc cực. Karen rất ghét phải ngủ trong một căn phòng lạnh buốt, dù bà ít khi có mặt ở nhà để quan tâm đến điều đó, ông thầm nghĩ, rồi hất cái mền qua một bên để đứng lên.

Từ ba năm nay, Karen làm cho một công ty du lịch tại Khách Sạn Madison Arllis ngay giữa trung tâm Manhattan. Lúc đầu bà hiếm khi ngủ qua đêm tại New York. Nhưng sau đó thì thường xuyên hơn, và vào một buổi chiều bà gọi điện về nhà.

- Anh ơi! chúng em làm việc bù đầu đây và em phải hoàn tất một số giấy tờ. Anh có thể nào xoay sở một mình được không?

Ông đã từng xoay sở một mình suốt ba mươi bốn năm trước khi cưới bà cách đây sáu năm, trong một chuyến du lịch qua Ý. Nên ông không gặp khó khăn gì khi phải trở lại cuộc sống đó. Karen giờ đây có một căn hộ trong khách sạn và thường ở đó suốt cả tuần, chỉ về nhà vào dịp cuối tuần mà thôi.

Grant bước đến cửa sổ và mở to cánh cửa ra. Cái màn liền phồng lên và một ngọn gió hết sức dễ chịu bay ùa vào trong phòng. Ông mau mau trở về giường, nhưng rồi do dự, đổi ý đi về phía hành lang. Tội gì chứ? Ông chưa buồn ngủ. Ông suy nghĩ về lá thư khá kỳ lạ kia đã được gởi đến văn phòng ông hồi lúc sáng nay. Mà cái cô Leona quái đó là ai thế nhỉ? Ông không có người sinh viên nào tên đó và cũng chưa hề có bao giờ.

Ngôi nhà sàn theo kiểu thôn quê này cũng khá rộng. Ông đã mua nó trước khi cưới Karen. Có một lúc Karen muốn trang trí nó, thay toàn bộ đồ đạc buồn tẻ trong đó và giờ đây nó từ từ mang lại dáng vẻ ngôi nhà của một kẻ độc thân.

Kéo cái quần hơi dài của ông lên và gãi đầu, Grant đi dọc hành lang, đi ngang qua phòng dành cho bạn bè, nhà bếp, phòng khách và phòng ăn để đi vào trong phòng làm việc. Ông bật đèn trần lên. Ông lấy chiếc chìa khóa của ngăn tủ bàn làm việc, lấy hết các bức thư ra và đọc.

Lá thư thứ nhất được gởi đến cách đây hai tuần.

“Allan thương yêu, ngay lúc này em đang nhớ lại những thời khắc tuyệt vời mà chúng ta ở bên nhau đêm qua. Đối với em, hình như chúng ta luôn yêu nhau. Nhưng có thể thời gian không được đành cho chúng ta thì phải? Anh có biết là em phải kềm chế đến mức nào để khỏi phải trèo lên nóc nhà la cho thật lớn là em yêu anh đến muốn điên lên không? Em biết là anh cũng có cảm nghĩ đó. Chúng ta phải che giấu việc chúng ta là của nhau, em biết vậy. Em cầu trời cho anh lúc nào cũng yêu và ham muốn em. Leona.”

Tất cả những bức thư này đều chung một luận điệu. Chúng được tiếp nối ngày này qua ngày khác, gợi lại những cảnh yêu đương trong văn phòng làm việc hay ngay trong ngôi nhà này.

Ông thỉnh thoảng cũng có tiếp các sinh viên ở nhà ông cho các buổi làm việc và có rất nhiều người biết rõ ngôi nhà này. Có vài lá thư nhắc đến cái ghế bành bị thụng bằng da nâu trong phòng làm việc. Nhưng có điều ông ta chưa hề tiếp một nữ sinh viên nào một mình trong căn nhà này, vì bản chất của ông ta không thuộc loại đó.

Grant xem xét thật cẩn thận tất cả các lá thư. Hiển nhiên là chúng được đánh bằng một máy chữ cũ kỹ và các chữ 0 và w có lỗi đánh máy. Ông đã kiểm tra hết hồ sơ của đám sinh viên và không một ai dùng loại máy đánh chữ này. Vả lại ông cũng không nhận ra nét chữ ký ngoằn ngoèo kia.

Một lần nữa, ông tự hỏi không biết có nên trình các lá thư này cho ban điều hành trường đại học và đưa cho Karen coi không nữa. Không thể nào đoán trước phản ứng của Karen sẽ như thế nào và ông cũng không muốn làm cho bà lo âu. Kể cả việc ông không muốn bà phải nghỉ làm việc để ở nhà với ông. Có thể vài năm trước đây ông rất muốn điều đó, nhưng bây giờ thì không đời nào. Ông phải quyết định một việc quan trọng đấy.

Ban điều hành. Ông sẽ báo cáo cho vị chủ nhiệm phụ trách công việc nội bộ một khi ông khám phá ra ai là tác giả các bức thư này. Điều đáng nói là ông không có một manh mối nào hết và nếu một ai đó tin là chúng chứa đựng một tí sự thật thôi cũng đủ để ông giã từ sự nghiệp của mình rồi.

Ông đọc lại các lá thư đó không biết đến lần thứ bao nhiêu rồi, cố tìm cho ra một lối hành ngữ, một câu hay một thành ngữ nào đó có thể gợi cho ông nhớ lại một sinh viên nào đó, nhưng không gì hết. Cuối cùng ông xếp các bức thư vào và khóa ngăn tủ lại, duỗi người ra để nhận thấy mình mệt muốn chết đi được. Việc nằm ngủ co ro trong chăn mền ở căn phòng lạnh là một chuyện, nhưng khi ngồi lạnh cóng trước ngọn gió lùa với chỉ một bộ đồ ngủ mỏng tanh là một việc hoàn toàn khác. Nhưng cái ngọn gió lùa đó nó từ đâu đến không biết nữa?

Khi ở nhà, Karen luôn kéo các bức màn lại và ông không hề quan tâm đến việc đó. Ông nhận thấy cánh cửa kính lùa mở ra sân trong vẫn còn hở vài phân. Nó rất nặng và dịch chuyển một cách khó khăn. Có thể ông đã đóng nó không kỹ, lần cuối cùng ông ra khỏi căn phòng và cái khóa cũng phiền phức rất khó đóng nữa chứ. Ông bước đến cánh cửa, đóng sầm nó lại và cài chốt mà không cần xem nó được cài lại hay chưa, rồi bỏ lên giường.

Ông nằm rúc người trong chăn mền và trong căn phòng lạnh một cách dễ chịu này, ông nhắm mắt lại ngủ liền. Trong những giấc mơ điên rồ nhất, ông cũng không thể nào tưởng tượng được có một hình bóng mảnh khảnh tóc dài đang ngồi co ro trên chiếc ghế bành nâu và đã bỏ đi khi nghe tiếng chân của ông tới gần.