- 106 . 107 -
Anne Webster cùng chồng trở về từ chuyến du lịch bên Úc vào sáng sớm ngày 26 tháng Tám. Moody đã gặp được Webster vào lúc trưa và thuyết phục được bà tiếp Sarah và ông ngay sau đó. Khi họ đến Bronxville, Anne Webster liền nói với họ.
- Tôi đã nghĩ rất nhiều về cái đêm mà Allan chết. Các người cũng biết là không một ai muốn mình cảm thấy là một tên ngu xuẩn. Karen đã thề với tôi là bà ta không hề dời chỗ đậu xe, nhưng giờ đây tôi có bằng chứng là bà ta đã làm việc đó.
Moody ngỏng cổ thẳng lên trong khi Sarah thấy môi chị khô cứng lại.
- Bà có bằng chứng nào vậy, bà Webster?
- Tôi có nói với mấy người là Karen đang rất bực bội trên đường đến phi trường. Tôi quên nói với mấy người là bà ta đã gạt phăng tôi qua khi tôi nhắc bà ta là chiếc xe gần hết xăng rồi. Có điều là bà ta không hề đổ xăng trong lúc về và cả trong lúc đi, và cả ngày hôm sau cũng không luôn, khi tôi cùng bà ta đi Clinton.
- Bà có biết Karen trả tiền xăng bằng tiền mặt hay bằng thẻ tín dụng không?
Anne Webster nở một nụ cười chua cay.
- Các người có thể tin là đêm đó bà ta đã đổ xăng tiền của công ty.
- Thế các biên nhận của tháng Giêng hiện giờ được cất ở đâu?
- Tại văn phòng, Karen sẽ không bao giờ đồng ý cho người ta lục trong đám hồ sơ đâu nhưng Connie sẽ làm chuyện đó nếu tôi yêu cầu. Tôi sẽ điện cho cô ấy.
Bà ta nói một lúc với người cựu thư ký của mình. Sau khi bà gác máy, bà cho biết:
- Mấy người gặp may đấy. Hôm nay Karen được mời đến hãng Hàng Không United Airlines. Connie không cần cho người ta năn nỉ để kiểm tra lại các biên lai đâu. Cô ấy đang phẫn nộ vì cô xin được tăng lương nhưng Karen đã từ chối thẳng thừng.
Trên đường đến New York, Moody báo trước với Sarah.
- Xin cô đừng quên là dù cho chúng ta có chứng minh được sự hiện diện của bà Karen trong khu vực của Clinton trong đêm đó, nhưng không có gì chứng minh là bà ta có liên quan đến cái chết của chồng mình.
- Tôi biết, Sarah đáp lại. Nhưng mà ông Brendon, phải có một cái gì đó vững chắc để cho chúng ta bám vào chứ?
Connie Santini chào đón họ với một nụ cười đắc thắng, liền cho họ biết tin sau đây:
- Tôi có tìm được một biên nhận trong tháng Giêng của một trạm xăng Esso trên quốc lộ 78 cách Clinton sáu cây số và một biên nhận có chữ ký của Karen. Trời ơi tôi sẽ xin nghỉ việc thôi. Con mụ này quá keo kiệt. Năm ngoái tôi không được tăng lương vì công việc làm ăn thất bại. Bây giờ chúng đã khấm khá trở lại, mụ ta cũng không muốn tăng lương cho tôi nữa. Tôi nói cho mấy người biết điều này: mụ ta mua quần áo và nữ trang còn nhiều hơn tiền mà tôi lãnh được trong suốt một năm đấy.
Connie chỉ vào tiệm kim hoàn L. Crown ở đầu kia hành lang.
“Mụ ta vào đó mua nữ trang như thể người ta đi chợ vậy. Nhưng đối với mấy chuyện đó mụ ta cũng bủn xỉn lắm. Có một hôm mụ ta có mua một vòng đeo tay rồi làm mất ngay sau đó. Mụ ta bắt tôi phải bò đi kiếm cho mụ. Khi người ta gọi điện đến báo vụ Allan bị giết chết, mụ ta đang gây gổ với những người ở tiệm đó với lý do là cái khoá gài lại không kín. Nhưng lần sau thì mụ ta làm mất nó luôn rồi. Các người biết không, cái khoá đó cài tốt lắm chứ, nhưng mụ ta không bao giờ chịu khoá nó cho cẩn thận rồi bắt người ta phải thay cái khoá khác.”
Một vòng đeo tay, Sarah thầm nghĩ, một vòng đeo tay. Trong căn phòng của Allan Grant, vào cái ngày mà Laurie nhận tội, Laurie hay đúng hơn thằng bé trai có nhái hành động lượm một cái gì ở dưới đất rồi bỏ vào trong túi quần. Cô không thể nào nghĩ rằng cái vòng đeo tay được tìm thấy trong quần jean có dính máu của Laurie không phải của em mình và cô không hề muốn nhìn đến nó.
- Cô Santini ơi, cô đã giúp chúng tôi rất nhiều, ngoài sự mong đợi của chúng tôi, Moody nói với cô. Có thể nào cô ở lại văn phòng thêm một ít lâu được không?
- Cho đến năm giờ chiều. Tôi sẽ không tặng cho mụ ta thêm một giây phút nào hết.
- Tốt lắm!
Người bán hàng trẻ tuổi đứng đằng sau quầy của tiệm kim hoàn L.Crown. Bị ấn tượng khi nghe Moody nói làm việc cho một công ty bảo hiểm đi điều tra một vòng đeo tay bị mất cắp, anh ta kiểm tra lại sổ sách.
- Ồ đương nhiên rồi, thưa ông. Ngày 28 tháng Giêng, bà Karen Grant có mua một vòng đeo tay. Đây là kiểu mới nhất trong bộ trưng bày của chúng tôi, được làm bằng vàng xoắn với trang trí khảm bằng dây bạc. Đây là một kiểu thật dễ thương với giá một ngàn năm trăm đôla. Nhưng tôi không hiểu tại sao bà ta lại đi khai báo với công ty bảo hiểm kia chứ! Chúng tôi đã bồi thường cho bà ta rồi kia mà. Ngay ngày hôm sau bà ta đã trở lại với vẻ chán nản. Bà ta chắc chắn là nó đã tuột khỏi tay sau khi đã đeo nó vào rồi.
- Tại sao bà ta lại quả quyết như thế?
- Bà ta nói là lần đầu nó đã rớt trong văn phòng làm việc trước khi mất hẳn vào lần sau. Thành thật mà nói, cái vòng đó có một loại khóa mới hết sức an toàn nhưng với điều kiện là phải cài nó cho thật cẩn thận.
- Anh có bảng kê các cuộc mua bán không? Moody hỏi.
- Có chứ, nhưng chúng tôi đã thay thế món đó rồi thưa ông vì bà Grant là khách thường xuyên của chúng tôi.
- Anh có thể cung cấp cho tôi một tấm hình của chiếc vòng đó được không?
- Chúng tôi vừa có hình mà có luôn cả vòng nữa. Chúng tôi đã làm nhiều cái khác từ tháng Giêng rồi.
- Tất cả đều giống đúc nhau hay sao? Cái của bà Grant có gì khác lạ không?
- Thưa ông, khác là ở cái khoá. Sau lần bị rớt đó, chúng tôi đã thay đổi hết các khóa cài. Chúng tôi không muốn chuyện đó xảy ra nữa. Anh ta lấy một cuốn tập dưới quầy lên. Ông thấy không, kiểu khoá gốc được cài như thế này đây… còn kiểu hiện giờ chúng tôi sử dụng thì được cài như thế này và có thêm một xích an toàn nhỏ nữa.
Người bán hàng vẽ rất hay.
Có được trong tay bản sao biên nhận mua bán đề ngày 28 tháng Giêng và một tấm hình màu của chiếc vòng cùng hình vẽ của cái khoá có ghi chú, Sarah và Moody trở lại hãng lữ hành Global. Connie Santini đang chờ họ, mắt sáng lên vì tò mò. Cô quay số điện thoại cho bà Anne Webster sau đó đưa điện thoại cho Moody rồi nhấn vào cái nút phát loa để mọi người có thể cùng nghe.
- Thưa bà Wesbter, bà có nhớ chuyện chiếc vòng bị mất vào cái đêm mà bà ở tại phi trường Newark cùng Karen Grant không?
- Dĩ nhiên là nhớ chứ. Như tôi đã nói với ông, Karen đưa bà khách và tôi về New York lại. Thình lình bà ta thốt lên “Mẹ kiếp tôi lại làm mất nó nữa rồi” rồi bà ta xoay qua nhìn tôi với vẻ bực tức, hỏi coi tôi có thấy chiếc vòng đó khi còn ở tại phi trường không?
- Và bà đã thấy nó có đúng không?
Webster do dự.
- Tôi nói gạt bà ta. Thật ra tôi thấy nó trong cổ tay của bà ta trong phòng khách hạng nhất nhưng cái màn mà bà ta làm như lúc đã đánh mất tại văn phòng làm việc…tôi thật sự không muốn thấy bà ta nổi giận trước mặt khách hàng. Tôi có xác nhận là bà ta không có đeo nó lúc đi đến phi trường và có lẽ nó ở đâu đó trong văn phòng làm việc ấy mà. Nhưng ngay đêm đó tôi có gọi điện cho bà ta để biết coi có ai đó đem nó trả lại không. Mọi việc đều êm xuôi. Tiệm kim hoàn đã đền cho bà ta một cái khác.
Trời ơi! Trời ơi! Sarak thầm cầu xin.
- Bà có nhận ra được cái vòng đó không bà Webster? Moody hỏi.
- Được chứ! Bà ta có khoe cho Connie và tôi, cắt nghĩa đây là một kiểu mới.
Connie Santini gật đầu lia lịa.
- Thưa bà Webster, không lâu sau tôi phải nhờ đến bà một lần nữa. Bà đã giúp chúng tôi nhiều lắm. “Dù cho bà không muốn” Moody thì thầm sau khi gác máy.
Còn một chi tiết cuối cùng cần phải kiểm tra lại. Con cầu xin Chúa, con cầu xin Ngài, Sarah nói to tiếng khi quay số điện thoại của ông công tố của quận Hunterdon. Người ta chuyển máy cho cô gặp trực tiếp ông ta, cô xin báo một tin tức tối cần thiết. “Tôi chờ máy đây”. Chị cắt nghĩa cho Moody. “Họ đang sai người đến phòng lục sự”.
Họ im lặng chờ đợi suốt mười phút rồi Moody thấy mặt của Sarah sáng lên như thể ánh mặt trời xuyên thủng đám mây, trong khi mặt thì ửng lệ. “Vàng xoắn có khảm chỉ bạc” cô nói. “Cám ơn nhiều. Tôi cần phải gặp ông vào sáng mai tại tòa án. Thế ông chánh án Armon có mặt ở tòa không?”
107
Karen Grant rất bực mình khi không thấy Connie Santini đến làm việc vào sáng ngày thứ năm. Phải tống cổ con này mới được, bà tự nhủ trong lúc bật đèn lên và nghe các tin nhắn. Connie có để lại một tin. Cô có việc khẩn cấp phải làm ngay và sẽ trở về hơi muộn một chút. Có gì là khẩn cấp trong đời của cô ta kia chứ? Karen nghĩ khi mở ngăn tủ để lấy bản nháp bài diễn văn mà bà sẽ đọc trước tòa án trong phiên xử Laurie Kenyon. Nó được bắt đầu bằng câu “Allan Grant là một người chồng thật tuyệt vời.
Phải chi bà Karen Grant biết hiện giờ mình đang ở đâu, Connie Santini thầm nghĩ khi ngồi cạnh bà Anne Webster trong căn phòng chờ đợi cạnh phòng làm việc của ông công tố. Và cũng ngay lúc đó Sarah Kenyon và Brendon Moody đang bàn chuyện với ông ta. Connie rất xúc động vì cái không khí trang nghiêm đang bao trùm lấy nơi này. Chuông điện thoại reo liên tục. Các luật sư trẻ tuổi vô ra, tay ôm cả chồng hồ sơ. Một người phụ nữ nói qua vai của mình “Hãy ghi lại tin nhắn đi, hiện giờ tôi không tiếp chuyện bất cứ ai, người ta đang chờ tôi dự họp ngay bây giờ đây.
Sarah Kenyon mở cánh cửa ra và nói “Bà làm ơn vô đây được không? Ông công tố muốn nói chuyện với bà”.
Một phút sau khi được giới thiệu với ông công tố Levine, Anne Webster nhìn thấy một cái túi bằng nylon trong suốt có kèm theo nhãn để trên bàn ông công tố. “Mẹ ơi! bà thốt lên. Đây là vòng đeo tay của Karen mà. Các người tìm thấy nó ở đâu vậy?
Một giờ sau đó, ông công tố Levine và Sarah đến trình diện ông chánh án Armon.
- Thưa Ngài Chánh Án, Lévine nói, tôi không biết phải bắt đầu từ đâu nhưng tôi đến đây cùng cô Sarah Kenyon để xin ông hoãn lại ngày thi hành án của Laurie Kenyon sau hai tuần nữa.
Ông chánh án nhướng đôi mày “Vì lý do gì mới được?”
- Thưa ông chánh án, tôi chưa hề gặp trường hợp nào như thế này, nhất là khi bị can đồng ý nhận tội. Hiện giờ chúng tôi có nhiều chứng cứ hết sức thuyết phục để tin chắc rằng Laurie Kenyon không phải là hung thủ đã giết chết Allan Grant. Như ông đã biết, cô Kenyon có khai là cô không nhớ đã phạm tội ác đó nhưng cô phải tin là mình đã làm việc đó trước các kết luận do bên công tố đưa ra. Hôm nay có một sự kiện mới quá ư là kinh ngạc dẫn đến một nghi ngờ nghiêm trọng về việc phạm tội đó.
Sarah giữ im lặng trong khi nghe ông công tố báo cáo lại cho ông chánh án vụ chiếc vòng đeo tay, về lời khai của người bán hàng, về bằng chứng bà Karen có đổ xăng tại một trạm ở Clinton và sau đó chị ta có trình lên cho ông ta các lời khai có mang chữ ký của Anne Webster và Connie Santini.
Hai người này không nói tiếng nào trong ba phút sau đó, thời gian cần thiết cho ông chánh án Armon đọc các lời khai và xem xét các biên nhận. Sau khi đọc xong, ông chánh án lắc đầu.
- Thật kỳ lạ, trong suốt hai mươi năm ngồi tại ghế chánh án này, tôi chưa bao giờ thấy một chuyện quái đản như thế này đây. Đương nhiên là căn cứ trên các bằng chứng này, tôi sẽ cho hoãn ngày thi hành án.
Ông nhìn Sarah với ánh mắt thương cảm trong khi hai tay của cô nắm chặt lấy tay ghế mà trên nét mặt biểu lộ nhiều cảm xúc lẫn lộn.
Sarah cố nói bằng một giọng thật điềm tĩnh.
- Thưa ông chánh án, một đằng là tôi hết sức vui mừng nhưng đằng khác tôi cũng thành thật hối hận đã khuyên Laurie nhận tội.
- Cô không nên quá khắt khe với chính mình như thế, cô Sarah, ông chánh án an ủi. Chúng tôi đều biết cô đã cố gắng hết sức mình để bảo vệ cô ấy.
Ông công tố Lévine đứng lên.
- Tôi định nói chuyện với bà Grant trước phiên xử về những gì bà ta muốn khai trước tòa. Nhưng bây giờ tôi nghĩ là tôi sẽ hỏi bà ta về cách mà ông chồng bà ta bị giết chết.
- Cái gì? Tại sao lại không có vụ xử vào ngày thứ hai chứ? Karen ngạc nhiên hỏi. Trở ngại gì vậy? Thưa ông Lévine, tôi thiết nghĩ ông cũng biết đây là một cực hình cho tôi mà. Tôi không muốn gặp lại mặt cô con gái đó đâu. Nội cái việc phải soạn lời khai thôi cũng đủ làm cho tôi xúc động lắm rồi.
- Đây chỉ là các thủ tục thông thường thôi, ông Lévine tìm cách nói để trấn an bà ta. Vậy có thể nào bà đến đây vào lúc mười giờ sáng ngày mai được không? Tôi muốn được nói chuyện với bà.
Connie Santini về đến nơi làm việc vào lúc hai giờ chiều, với nỗi lo phải nghe Karen khiển trách. Ông công tố có dặn cô không được tiết lộ bất cứ điều gì về cuộc trao đổi với ông ta. Nhưng bà Karen tỏ ra lo lắng nên không hỏi bất cứ điều gì.
- Cô hãy trực điện thoại đi, bà ta bảo Connie, và nói là tôi bận việc. Tôi phải nghĩ về lời khai của tôi. Tôi phải làm cho ông chánh án biết tôi đã đau khổ như thế nào.
Sáng hôm sau, Karen mặc quần áo thật chỉnh tề cho buổi gặp này. Mặc đồ tang để đến tòa án ngày hôm nay có vẻ lố quá. Bà ta chọn một bộ cánh màu xanh dương đậm và trang điểm một cách dè dặt.
Ông công tố cho mời bà ta vào ngay.
- Mời bà Karen vào, tôi rất vui được gặp bà.
Ông luôn tỏ ra thân thiện và thêm vào đó ông còn là một người đàn ông hết sức quyến rũ. Vì thế bà đáp trả bằng nụ cười.
- Tôi có làm một lời khai cho ông chánh án và tôi hy vọng nó cho thấy những gì tôi đã trải qua.
- Trước khi nói về chuyện đó, tôi muốn hỏi bà một vài việc. Mời bà đi theo tôi.
Karen rất ngạc nhiên khi thấy ông ta đưa bà qua một căn phòng nhỏ kế cận. Có vài người đàn ông và một cô tốc ký đã có mặt. Hai trong các người này là các thanh tra cảnh sát đã nói chuyện với bà trong buổi sáng người ta tìm thấy xác chồng bà trong nhà.
Có một điều gì đó đã thay đổi trong thái độ của ông Lévine. Ông ta dùng một giọng nói lạnh lùng và nghiêm trang để thông báo cho bà.
- Thưa bà Karen, tôi sẽ đọc cho bà biết các quyền lợi của bà.
- Cái gì?
- Bà có quyền giữ im lặng, bà có hiểu không?
Mặt của Karen không còn một chút máu. “Hiểu”
- Bà có quyền yêu cầu một luật sư… và tất cả những gì bà nói đều có thể sử dụng một cách hợp pháp để chống lại bà…
- Tôi hiểu rồi… nhưng tất cả những thứ đó có nghĩa gì vậy? Tôi là vợ của nạn nhân kia mà.
Ông ta tiếp tục thông báo các quyền lợi của bà và hỏi bà có hiểu không. Cuối cùng ông kết luận bằng câu:
- Bà có muốn đọc lại và ký tên vào tờ từ khước các quyền lợi của mình để khai cho chúng tôi không?
- Muốn chứ nhưng tôi nghĩ là các ông điên hết cả rồi hay sao vậy? Tay của Karen run lẩy bẩy trong lúc ký tên.
Cuộc hỏi cung bắt dầu. Bà không còn để ý đến máy thu hình và không còn nghe thấy tiếng lách cách của nhân viên tốc ký trên bàn phím.
- Không, đêm đó tôi không hề rời khỏi phi trường. Không, tôi không hề đậu xe ở một chỗ khác. Cái bà Webster lẩm cẩm luôn ngủ gục mà. Tôi vẫn ngồi theo dõi cuốn phim đáng ghét đó trong khi bà ta không ngừng ngáy bên tai tôi.
Ông đưa ra biên nhận của thẻ tín dụng liên quan đến việc đổ xăng tại trạm.
- Đó là một sai lầm. Bọn chúng đã ghi trật ngày rồi. Mấy ông cũng biết là mấy thằng ngu đó làm cái gì cũng sai hết mà.
Rồi đến chiếc vòng đeo tay.
- Họ bán nhiều cái vòng như thế đó. Các ông nghĩ gì vậy? Rằng tôi là người khách duy nhất của tiệm đó hay sao? Dù sao thì tôi cũng đã làm mất nó tại nơi làm việc. Ngay cả bà Anne Webster cũng có nói là tôi không có đeo nó khi đến phi trường kia mà.
Karen Grant cảm thấy tìm minh đập liên hồi. Ông công tố cho biết là khoá của chiếc vòng đeo tay của bà là kiểu độc nhất, rằng bà Anne Webster đã khai dưới lời thề là đã thấy cái vòng nơi tay của bà và bà ta còn gọi điện thoại để hỏi bà về việc mất mát này nữa.
Tuy nhiên bà vẫn trả lời bốp chát cho các câu hỏi của họ.
Thế mối quan hệ của bà và Allan như thế nào rồi?
- Rất tốt! Chúng tôi yêu nhau tha thiết. Đương nhiên là đêm đó ông ta không hề gọi điện để báo là ông ta muốn ly dị với tôi.
- Còn Edwin Rand?
- Chỉ là người bạn mà thôi.
Lại chiếc vòng đeo tay?
- Tôi không muốn nghe nói đến chiếc vòng đeo tay nữa. Không, tôi không hề làm mất nó trong căn phòng ngủ.
Gân cổ của bà phồng to lên, mắt thì nhòa lệ, tay không ngừng mân mê chiếc khăn tay.
Ông công tố và các thanh tra viên nhận thấy bà không còn bình tĩnh nữa, rằng bà không thể thoát một cách dễ dàng như thế đó. Bà cảm thấy chiếc lưới từ từ trùm chặt lấy người bà.
Viên thanh tra trẻ tuổi Frank Reeves làm ra vẻ cảm thông.
- Tôi có thể hiểu được cách mà các sự việc diễn tiến như thế nào. Bà đã trở về nhà với ý định giảng hoà với chồng bà. Nhưng ông ta đang ngủ. Bà thấy chiếc túi xách của Laurie nằm ngay dưới chân giường. Và lúc đó có thể bà nghĩ là Allan đã nói dối bà khi quả quyết rằng giữa ông ta và cô gái đó không có chuyện gì hết. Bà đã ra tay. Có sẵn con dao ở đó. Chỉ sau đó bà mới nhận thức được hành động của mình. Có thể bà đã giật mình khi hay tin chúng tôi đã tìm thấy con dao trong phòng của Laurie.
Reèves càng nói chừng nào thì đầu của Karen càng cúi gục xuống chừng ấy, rồi cả thân người của Karen dường như đã quỵ hẳn. Mặt ràn rụa nước mắt, bà nói với một giọng cay đắng.
- Khi thấy cái túi xách của Laurie, tôi nghĩ là ông ta đã dối gạt tôi. Trong điện thoại, ông ta nói là muốn ly dị tôi, rằng ông đã có một người khác trong đời rồi. Khi các ông báo tin cho tôi là con dao ở trong phòng của Laurie, tôi không thể nào ngờ được. Tôi cũng không nghĩ là Allan đã chết thật rồi, tôi không hề muốn giết chết ông ta.
Bà nhìn ông công tố và các thanh tra bằng một ánh mắt van xin.
- Tôi thật sự yêu ông ta, ông ấy quá tốt.