← Quay lại trang sách

21. Nước Cờ

Tiếng chân huỳnh huỵnh chạy từ trên gác xép xuống, căn gác ba mét chiều rộng, bốn mét chiều ngang, được dành riêng cho vợ chồng cậu ấm Phúc. Căn nhà nhỏ trong giáo xứ quận tám, cạnh bến Phạm Thế Hiển, mùa nắng mùi bùn từ sông bốc lên, mùa mưa mùi tanh của nước từ đất úng ngập phả xuống, là chuyện thường, tường nhà nào cũng có cái vạch nước ngập lưng lửng, cao hơn cái chân quỳ đi-văng, mùa khô là chỗ ăn cơm, mùa ướt là nơi chạy lụt, bao nhiêu thứ cứ chất đống cả lên đấy.

Cậu Phúc mang người vợ Tàu, từ Đà-Lạt về xóm là điều thật lạ, cô ta đẹp trắng, dáng dấp con nhà giàu. Ngày chiếc xe xích lô máy bình bịch chở vợ chồng Phúc đến cửa nhà, con nít bu đầy, để ngắm nghía chiếc va li da to, vài cái hộp dán giấy hoa thật đẹp, nhất là cái nón có kết đầy đăng ten của cô dâu mới, con nít nhà nghèo cả đời có bao giờ được thấy.

Xóm đạo nhỏ này, chỉ có nhà ông trùm Phúc là có bàn thờ trải khăn trắng thêu, viền tua màu kim nhũ. Những pho tượng thánh, to bằng nửa người thật, chiếm gần hết một phần ba diện tích căn nhà, tối nào các bà mẹ công giáo cũng đến nhà ông bà trùm đọc kinh, họ ngồi lan cả ra ngoài ngõ. Nghe nói cậu Phúc con trai thứ của ông bà đi lính không quân, đôi lần về nhà trong bộ quần áo dính liền nhau, cả xóm ai cũng trầm trồ nhà ông bà trùm có phước, nhưng sau năm 1975 thì cái phước ấy thay đổi khi cậu Phúc rúc về nhà, ăn bám gia đình.

Người có cấp bậc, bị bắt đi học tập cải tạo, cậu Phúc thì không, nên người ta biết cậu ta chỉ là tên lính quèn, chắc chắn là thế. Cậu có cái mã đẹp trai, thêm giọng nói ấm nhẹ, các cô con gái trong xóm, ai cũng mong được cậu hỏi han, nhưng cậu chẳng bao giờ để mắt đến. Người tinh ý có thể đếm, đến hơn chục cô gái đẹp, quần áo tân thời son phấn mượt mà, thay nhau ghé thăm nhà ông bà trùm, họ đến từng thời kỳ khác nhau, mang quà trong chiếc giỏ xe gắn máy, có khi trong chiếc xe tắc-xi màu xanh dương, cho đến ngày anh chàng mang cô vợ Tàu từ Đà Lạt về.

Vợ của Phúc không có đạo, lại là người Tàu chính gốc, tiếng Việt biết nói vừa đủ để giao tế, nên làm dâu thế

nào được, với gia đình ông bà trùm người Bắc di cư, “giấy rách phải giữ lấy lề.” Ai trong xóm mà không biết gia đình ông Trùm, trước khi di cư vào nam là dân “con nhà,” ruộng cò bay thẳng cánh! Bà trùm cũng là con của ông tiên chỉ trong làng, sa cơ chạy Việt Minh vào Nam bằng tàu há mồm. Người ta cũng chạy loạn cùng thời, không có cái tiếng “con nhà” cứ xông xáo tay làm hàm nhai đã tạo dựng cơ ngơi bề thế, ông bà trùm bị quá khứ bó chân, dấm dẳng dở ông dở thằng nên cái nghèo nó dính vào lưng, chỉ hòng nhờ vào con cái. Không nghèo sao được khi bà không muốn hư bàn tay ngọc, khi ông không muốn “Tôi thế này mà đi làm mướn cho chúng nó à!”

Ngày đám cưới Phúc, cha mẹ cậu ta phải bán hai chỉ vàng dành dụm, để mua vé xe lên Đà-Lạt rước dâu, theo lời năn nỉ của cậu con: “Gia đình người ta giàu có nứt đố đổ vách, mai mốt tha hồ mà lấy lại vốn’’ Bà sắm chiếc áo dài nhung, thêm chuỗi ngọc trai bóng loáng, chuỗi ngọc này bà mua rẻ của mẹ Lễ, túng tiền đong gạo bán cho bà. Chỉ có hai ông bà lên Đà Lạt đón dâu thôi, mà cũng tốn bộn tiền.

Để giữ sĩ diện, ông mua chai rượu tây, hộp bánh bích-qui, cho dù cậu Phúc bảo, bên họ nhà gái chẳng cần gì lễ vật.

Bà trùm thì bán tín bán nghi, bà đã đứng xem đám cưới của con gái ông Xếng, chủ tiệm thuốc bắc, đám rước dâu có bao nhiêu lễ bộ. Từ lúc nhà trai bưng rượu vào xin dâu, đến khi rước được cô dâu A Lìn ra khỏi nhà, mất cả hai tiếng đồng hồ. Khi đám xe hơi giăng hoa đến ngõ hẻm, pháo bắt đầu nổ đì đùng. Một phong pháo từ nhà trai, báo cho họ nhà gái biết, họ đã đến và đang đứng đợi. Rồi nhà gái đốt phong pháo trả lời, họ đã sẵn sàng để đón tiếp nhà trai. Khi ấy bà mai, cùng đại diện nhà trai, mang khay rượu và những vật lỉnh kỉnh chi nữa, bà không thấy rõ vào nhà.

Sau đó họ quay ra, mang phái đoàn có con heo quay đi đầu, tiếp theo là hơn chục cái khay- mâm, phủ vải đỏ kín mít, sau cùng mới đến chú rể xúng xính trong bộ đồ vét-tông, cầm bó hoa chầm chậm đi vào.

Đến cửa nhà bị em gái em trai của cô dâu, chăng dây đóng chặt, kẻ bên trong người bên ngoài cánh cửa có treo bảng đỏ “Vu Quy”, xí xa xí xô, rầm rộ cả khu chợ xép, thì ra đây là lúc vui nhất trong đám rước dâu. Các cô cậu chưa có gia đình “làm khó” chú rể trước khi gả chị gái, em gái về nhà chồng. Họ ra giá bắt chú rể phải trả, họ mới chịu mở cửa, họ còn gạt chú rể lấy mất bó hoa, chú rể phải van xin mãi mới xong. Người Hoa tin có giờ tốt giờ xấu, nên để rước dâu đúng vào giờ hoàng đạo, họ đã chuẩn bị cả xấp bao thơ đỏ cho việc “làm khó" chú rể này.

Lên Đà Lạt, hai ông bà mới biết rằng, đàng gái khinh thường đàng trai quá lẽ, họ không thèm tiếp, chỉ có bà vú em, người nuôi dưỡng cô dâu từ tấm bé ra mời trà.

Vừa bẽ bàng vừa tủi hổ, khi Hùng Có anh trai của cô dâu, tiễn em gái ra khỏi ngôi biệt thự to bằng cái đình, trong giọng nghẹn ngào, thông báo chính xác điều giòng tộc họ Lý quyết định: “Con gái họ Lý lấy chồng Việt Nam là ra khỏi họ Lý, không có của hồi môn, không được chia gia tài điền sản. Chỉ được giữ những tư trang đã có từ trước."

Thì ra ngày rước dâu, cũng là ngày cô dâu bị gia đình từ bỏ, vì cô mang thai trước ngày cưới, với người không cùng chủng tộc. Mặt của ông trùm đanh lại, ông không nói được tiếng nào, trong tiếng khóc thút thít của cô dâu, khuôn mặt đẹp hay xấu ông không thể thấy, vì nó cúi gầm xuống sát ngực. Bà vú khóc nấc, khi người anh ruột của cô lập lại lần nữa lời của cha cô, nói cho cô biết, cô không có của hồi môn, không được chia tài sản, không còn được dính dáng gì với giòng tộc họ Lý và nhất là bà vú không được đi theo cô. Khuôn mặt của cậu Phúc chuyển màu chàm, tiệp vào bộ đồ lớn màu lông chuột, cậu đã mượn hai ngày trước của thằng bạn, con ông thẩm phán.

Thế là lý do cậu Phúc đưa ra, để cha mẹ bán vàng đi cưới vợ cho cậu đổ sông đổ biển, chỉ một điều còn lại là cái bào thai trong bụng của cô dâu.

Đã ra đến bến xe, chờ mua vé về lại Sài Gòn, bà vú tìm đến, mời cả gia đình ông bà Trùm vào khách sạn Ngọc Lan, Hùng Có đã mướn sẵn phòng cho họ. Anh ta không dám ngỏ lời tại nhà, vì ông bố đứng ở phòng bên cạnh, nhìn qua màn cửa xem mặt nhà trai.

Hùng Có thương em gái lắm, bà mẹ của cô cũng ngất lên ngất xuống, vì quyết định của họ Lý, nhưng bà phải phục tùng như một thói quen, kể từ ngày về làm dâu làm vợ. Mỗi tháng bà có riêng một khoảng tiền để chi dụng cho quần áo, du lịch, đánh mạc chược, chăm sóc con, và các gia nhân phục dịch. Cô con gái bà nâng như trứng, hứng như hoa, nay bị đuổi ra khỏi họ, bà không đau đớn sao được.

Lệnh của chồng, bà không được cãi, vì ông là tộc trưởng phải theo đúng nghiêm luật của dòng họ.

Tài sản truyền từ thời ông tổ đến con cháu, ông không được phép để thất thoát vào tay người ngoại tộc. Con trai ông, lấy vợ người Việt không sao, vì con dâu sẽ đẻ con cháu cho họ Lý nhà ông, con gái lấy chồng Việt là sanh con cháu cho họ nhà người, nó không có quyền nhận tài sản từ dòng tộc. Vả lại người nó chọn đã không được ông chấp nhận, ngày đầu ông bắt gặp Phúc đưa con gái của ông vào tiệm cà phê Thanh Thủy bên bờ hồ, ông đã thấy nét ma mãnh của nó.

Ông đã nói chuyện với Mạc Lan về việc: “Lấy chồng không cùng chủng tộc sẽ mất quyền lợi là con gái họ Lý” hòng răn đe con gái. Nhưng cái thai nó đang mang, đã thắng ông rồi, lòng ông cũng đứt đoạn khi từ con, nhưng luật là luật.

Khách sạn Ngọc Lan chỉ là khách sạn đứng hàng thứ hai thứ ba ở Đà Lạt, mà gia đình ông bà Trùm thấy như được ở trong dinh quan, ông trầm trồ mãi với bà và quên đi nỗi nhục nhã bị họ Lý khinh thường. Tự nhiên được mời ở khách sạn một tuần, có cả một phong bao dầy đầy tiền, tương đương năm chỉ vàng do bà vú của cô dâu trao, lại thêm một bữa tiệc cưới linh đình, tại nhà hàng nằm trong khách sạn Đà Lạt, phòng tiệc nhìn thẳng lên núi Lang-Biang. Buổi tiệc cưới có quay phim hẳn hoi, nhìn quanh quan khách toàn là người trẻ, bạn của Hùng Có, bạn của cô dâu, không ai là ông già bà cả, ngoài bà vú lúc nào cũng đứng ngồi, bên cạnh Mạc Lan.

Qua buổi tiệc, ông bà trùm mới hay, anh cô dâu là bạn của cậu Phúc, bạn ăn chơi là chính. Cậu Phúc lựa toàn những bạn nhà giàu. Cậu có tài ăn nói, đọc được tiếng Pháp nên tha hồ cậu lòe thiên hạ. Ai cũng nghĩ cậu là con cưng trong một gia đình quyền quý, cái gì cậu cũng biết rành rẽ, từ rượu tây đến trà tàu, bàn sang chuyện văn chương, cậu làu làu Dumas cha Dumas con, sang đến chính trị, cậu râm ran Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Tưởng Giới Thạch, Tống Mỹ Linh, dòng họ Kenedy cậu tường tận từ thời ông cố ông sơ, chưa kể cậu biết cả gia phả của Hoàng Gia Anh Quốc.

Nói chuyện với cậu, đám bạn người Hoa giàu có tiền bạc, nghèo khó kiến thức, cứ há hốc cả mồm mà nghe.

Phải bao bọc cậu ta ngày này sang tháng nọ có là bao, so với thu nhập bạc triệu mỗi tháng, trong khi lương công chức ba cọc ba đồng, vài ngàn cũng đủ nuôi vợ nuôi con.

Hùng Có không đoán ra ngày cô em gái bị người bạn dẻo mồm, nhìn thành con mồi thơm để hắn giăng lưới. Cô Mạc Lan, là trứng là hoa là viên ngọc quý của cha mẹ Hùng Có, cô dịu dàng, ngọt ngào như chiếc kẹo chocolate. Bà vú nuôi cô, dậy dỗ cô mọi điều hay lẽ phải, ngay từ khi cô vừa lớn, ngoài việc dậy cô cách làm ăn sinh sống, vì bà nghĩ cô là con cưng của họ Lý, gia tài điền sản có ngồi ăn rỗi cả đời cũng không hết.

Công việc xuất nhập cảng của ông Lý khắp mọi nơi, đi đâu ông cũng dắt con gái cưng đi theo, từ Hồng Kông, Đài Loan, Thái Lan, sang đến Pháp, Ý, Hoa Kỳ.

Những tấm hình của Mạc Lan, được ông Lý sai người phóng lớn, đóng khung trang trọng treo trên tường, trong phòng khách thay cho những bức tranh. Nào là hình cô đội nón lông trắng đứng trước Khải Hoàn Môn ở Pháp, đến hình cô mỉm cười thật tươi trước chùa mái vàng bên Thái, rồi hình tóc cô bay theo gió, trên dòng nước thành Venice, anh chàng chèo thuyền đội nón rộng vành, đứng sau lưng cô mắt ngơ ngẩn đăm đăm, đắm đuối.

Chính những bức tranh ấy, đã là đầu mối cho ván cờ của cậu Phúc, chính những tấm hình ấy là cái chĩnh gạo để cậu ta lập ra bao nhiêu mưu mô, như con chuột nhắt tìm cách chui vào. Cậu ta bỏ hết mọi việc khi nghe Hùng Có nói đi đón cô em từ Bang-Cốc về, vào tháng 2 năm 1975, sau một chuyến du lịch ngắn hạn. Trên chiếc xe hơi Peugeot 404, cậu chỉ chào hỏi cô Mạc Lan cho có lệ, rồi để mắt nhìn dòng xe qua lại bên ngoài. Lăn lộn với cuộc đời lâu ngày cậu biết rằng, lần đầu gặp con gái đẹp và giàu có, càng không để ý đến, họ càng tò mò muốn biết về mình.

Cậu đã tính đúng nước cờ đầu, Mạc Lan được chú ý ở khắp nơi cô xuất hiện, con trai của các ông trọc phú, bạn của thân phụ nàng, xum xoe liếng láu mong được nàng ghé mắt. Các bạn người Hoa cùng làm ăn với Hùng Có, khi dự tiệc ở nhà nàng cũng không khác, kẻ tặng hoa người tặng khăn, những chiếc khăn từ Ấn Độ, từ Miến Điện lóng lánh sợi nhũ trắng nhũ vàng.

Mạc Lan chú ý đến anh chàng Việt Nam có ánh mắt sâu, sóng mũi thẳng, giọng nói trầm, ngay lần đầu gặp ấy, vì anh ta đã không thèm ghé mắt nhìn đến nàng. Nàng là con nai tơ ngơ ngác, không biết chống tượng, chẳng biết thủ sĩ. Những con chốt thí từ đối phương, gởi cho nàng là vài đóa hoa cúc hái bên đường, thắt nơ hồng xinh xinh bằng dây ny lông. Vài tờ giấy hoa tiên vẽ nguệch ngoạc, hình cô gái có đôi mắt bồ câu, nhất là thêm vài câu phát âm tiếng Phổ Thông ngọng nghịu, đại ý khen cô đẹp, đã làm trái tim cô mềm hơn mây, đời cô vui hẳn lên, tất cả mọi thứ ấy, hoàn toàn mới lạ đối với cô, làm sao cô biết rằng ngựa xe của cậu Phúc đang ráo riết bủa vây.

Cậu bầy quân từ lúc đi chơi với cả nhóm Hùng Có, có mặt Mạc Lan, đến khi chỉ còn riêng hai người đi lẻ không ai biết. Cậu bán đủ thứ cậu có, để cung phụng cho Mạc Lan được biết đến những nơi thật bình dân, đĩa cơm sườn, ly sữa đậu nành nóng bên đường, cái bánh khói ngoài chợ chiều, cho đến ngày cậu pháo thẳng vào tướng.

Mạc Lan báo tin đã cấn thai tháng 11 năm 1975.

Sau ngày cưới ít ai thấy Mạc Lan, nàng không quen, cũng chẳng ai buồn dậy nàng cách sống nhà nghèo.

Đứa con gái cháu nội của ông bà Trùm, có khuôn mặt buồn rười rượi, mái tóc bum-bê không che hết cái trán vồ, người ta thường nói là cái tướng khổ, phải hứng chịu nhiều oan trái. Cậu Phúc đã có vợ con, nhưng ít khi ở nhà, họa hoằn lắm người ta mới thấy cậu, áo quần bảnh bao trên chiếc xe đạp đòn dông trở về xóm, đôi ba lần cậu đèo con bé năm tuổi đi đâu cả ngày, khi về nó có áo mới.

Phần mẹ nó trốn chui nhủi trên cái gác xép ba thước-bốn thước. Lâu lâu mẹ nó gặp bà vú, để lấy tiền, do bà ngoại nó lén lút chồng gởi cho mẹ của nó. Rồi gia đình bên ngoại của nó vượt biên, bà vú không đi theo vì thương mẹ nó. Hùng Có biết nhà nội nó nghèo kiết xác, gởi lại một số vàng, nhờ bà vú giữ đưa cho mẹ nó từ từ để nuôi nấng nó.

Mỗi lần có tiền, số tiền ấy giữ chân cha nó ở nhà với mẹ và nó được vài ngày, ngọt ngào với mẹ nó vài tiếng, để dụ lấy tiền làm vốn buôn bán kiếm lời. Lấy được tiền, cha nó lại đi mất, để hai mẹ con nó côi cút một mình, dưới cái nóng hầm hập từ mái tôn phả xuống. Nhiều lần như thế, cho đến khi bà vú báo cho biết số vàng đã cạn, cha nó vắng nhà lâu hơn. Mẹ con nó không có cơm mà ăn.

Ông bà nội nó chẳng thích có nó trong nhà chút nào cả, nó có lại gần chỉ bị ngón trỏ dí vào trán cùng lời nhiếc:

“Ông ngoại giàu bỏ cháu bỏ con. Về Tàu mà ở cho sướng, nhà bà không có cái thứ nằm ườn.”

Tiếng chân huỳnh huỵch cùng tiếng hét của cậu Phúc, to đến nỗi hai nhà bên cạnh cùng nghe, họ đổ xô sang nhà ông bà trùm. Bà trùm cuống cuồng chạy ra ngõ, kéo vội ông xích lô đang chụp nón lên mặt nằm nghỉ chờ khách, cậu Phúc bồng vợ từ trên gác xép đi xuống, hai tay của Mạc Lan thõng xuống, mái tóc dài đong đưa theo bước chân chồng, nó dài đến độ gần chấm đất. Bà hàng xóm tò mò thấy rõ dòng nước mắt đen, chẩy dài xuống tận mang tai, bà sấn đến sát bên nhìn cho rõ, thì ra là dòng kiến. Bà thét lên: “Chúa ôi!”

Bà vú biết tin đến nhà thương Chợ-Rẫy, còn gặp cậu Phúc nhơn nhơn cùng một người đàn bà son phấn ra dáng có tiền, đang nói nói cười cười. Cậu giả lả giới thiệu với bà, cô ấy là bác sĩ đang điều trị cho Mạc Lan.

Sau một tuần nằm trong khu điều trị đặc biệt, cô Mạc Lan thoát khỏi ván cờ mà cô không chơi đã thua cuộc.

Giấy tờ nhà thương xác định trong ruột cô đầy vật lạ làm nghẽn hô hấp, họ không cách gì cứu được. Vật lạ chính là cuộn băng thu hình ngày cưới.

Bà vú vừa khóc vừa kể bằng tiếng Quan Thoại, chiếc hòm gỗ không chịu nằm xuống cái huyệt úng nước trong nghĩa trang họ đạo quận Tám, nó cứ bập bênh, ông phu đòn phải đứng lên trên dìm nó xuống.

Không biết nỗi buồn bị bỏ rơi đã khiến cô kết thúc đời mình như thế, hay tại số vàng đã hết.

Nhìn khuôn mặt trơ trẽn của cậu Phúc người ta hiểu ra câu: “Phường giá áo túi cơm.”

Ấu Tím-2007