NĂM
Đoàn chúng tôi rời Việt An lên Thăng Phước, với tinh thần biểu diễn gọn nhẹ nên phông màn, những vật dụng cồng kềnh không cần thiết đều để lại Việt An. Quốc lộ 14E từ Hà Lam đi lên Việt An, con đường thâm nhập nhựa chừng hơn ba mét bề rộng, lổm nhổm đá sỏi, đầy ổ gà ổ trâu, nhiều đoạn trơ đất. Mùa nắng bụi mù mịt, mùa mưa bùn đất nhão nhoẹt, ngoằn ngoèo, cứ như muốn thách thức ý chí người đi đường, ngồi xe mà như cỡi ngựa. Đoạn từ bia Hột Xoài vô xã xe không chạy được đoàn phải lội bộ. Đường đất trơn trợt đi không đã khó giờ còn phải mang theo lỉnh khỉnh đủ thứ hầm bà lằng. Tội nhất là mấy cô em, mặc dù đã được cảnh báo trước nên trang bị gọn nhẹ, thế mà vẫn diện quần là áo lượt tay xách nách mang, giờ đứng trước cảnh này mặt mày nhăn nhó trông thật thảm hại. Mấy chàng thanh niên có vẻ khá hơn nhưng cũng đi lượn lờ như trợt Patin. Các anh các chú trong xã ra giúp sức, vác dùm những bọc đồ nặng và khiêng máy phát điện. Đoạn đường từ bia Hột Xoài vào xã không xa lắm nhưng chúng tôi phải đi đến trưa mới tới trung tâm xã. Mọi người mệt nhoài đói lả, bùn đất lếch phếch đầy người, anh em được nghỉ tối nay.
Thăng Phước là xã vùng cao của Thăng Bình. Người ở đồng bằng có dịp lên miền núi quả thật hấp dẫn và luôn bí ẩn đối với họ. Nhìn đâu cũng một màu xanh bạt ngàn. Bà con nơi đây hiền lành và tốt bụng, họ rất hiếu khách. Kinh tế dẫu còn khó khăn nhưng lòng nhiệt thành thì người dân có thừa. Nhìn xa xa những thửa ruộng be bé, cái cao cái thấp gối lên nhau, nước kiên trì chảy rỉ rả từ các chân ruộng trên cao đổ xuống tạo nên những chùm âm thanh đặc trưng của vùng này. Từng con đường ngoằn ngoèo chạy từ đường cái vào các ngôi nhà nho nhỏ, nép sau mấy rặng cây trong xóm, vừa xa xôi vừa gần gũi và cũng trơn trợt không kém.
Ở Thăng Phước có hai điểm diễn. Sau hai đêm ở đây chúng tôi kéo nhau vào thôn Tư (gần năm mươi năm nên nhớ về địa danh đôi khi không chính xác). Đường vào thôn Tư phải đi qua một ngọn núi. Đường đất nhỏ quanh co leo núi đi bộ hoặc xe đạp cũng đã vất vả, giờ mưa nắng thế này thì quả thật tôi không thể hình dung mức độ khó của nó. Chỉ có lên đây thế này mới hiểu được sự gian khổ của người dân nơi này ra sao. Kinh tế chắc cũng chẳng hơn gì quê tôi nếu không muốn nói là khó bội phần. Không buôn bán không quán xá, chỉ có một cửa hàng mua bán hàng hóa lèo tèo thiếu trên hụt dưới, cả ngày chẳng thấy một bóng người tới mua, có lẽ tôi là khách hàng thường ghé lại nhất để mua thuốc lá. Cô vừa là cửa hàng trưởng vừa là Mậu dịch viên, thủ kho, kế toán...
Người dân được điều tới để mang hộ hành lý, dụng cụ biểu diễn. Chúng tôi chỉ đi không mang vác gì mà di chuyển cũng đã vô cùng khó khăn. Đường trơn như bôi mỡ, bám trèo được vài bước lại trượt dài, rồi lại bám lại trượt... Chẳng phải bọn chúng tôi có ý chí quyết tâm không ngại gian lao, cũng không phải được sự động viên vì chúng ta đang làm nhiệm vụ gì gì đâu, mà chúng tôi thấy được sự thiếu thốn, gian khổ của người dân nơi đây, mà chúng tôi thấy được sự yêu thương, hiếu khách, nhiệt thành của họ. Ngay trước mặt tôi đây hai người dân đang khiêng máy phát điện, còn hai người đi sau cùng đẩy vào lưng người khiêng để trợ lực, cũng có lúc họ trượt ngã lăn quay, miệng vẫn cười dù khắp người bị xây xước, lấm lem bùn đất. Bọn chúng tôi cũng te tua nhưng hầu như không đứa nào than vãn. Có lẽ sự đồng cảm ấy chính là động lực để bọn chúng tôi quyết tâm hơn, càng trân trọng người dân nơi đây hơn. Lên dốc đã khó, khi xuống dốc quả thật khó khăn không tưởng, chẳng đứa nào không bị trượt ngã lăn tròn xuống dốc. bọn con trai hầu như đều cỡi trần dù gió núi lạnh tê tê, lấy áo để cho các bạn nữ quấn che mông vì thương tích. Cuối cùng rồi anh em cũng về đến đích. Đoàn quân ra trận chưa chiến đấu mà nhìn thật thê lương, tuy thế mọi người vẫn vui tươi, cười nói huyên thuyên, có chàng còn ôm đàn ngồi dưới gốc cây hát cho mấy em trong thôn ngồi quanh nghe. Tiếng hát lan tỏa trong nắng chiều nhẹ, xa xa sương mù bảng lảng dưới thung sâu khung cảnh lãng mạn thật đáng yêu, thật đẹp!
Hành trình vào thôn Tư quá gian nan, anh em rất mệt nên được nghỉ một ngày. Qua hôm sau trời mưa to không diễn được lại nghỉ. Thôn làm thịt một con bò đãi đoàn. Ngoài trời mưa lâm thâm hơi lạnh bắt đầu ren rét, anh em không thích ngồi một chỗ, đi loanh quanh thăm các nhà trong thôn. Cuộc sống nơi đây cũng cơ cực như quê tôi nói riêng và chung cho mọi làng xã khác. Dân gốc ở đây không bao nhiêu chủ yếu từ nơi khác lên. Trên này Cương có gặp một người bạn hình như từ Tam Kỳ về, một cô gái tên Thắng hay gì gì quên rồi, một cô bé xinh đẹp. Hôm trước thấy cô bé đi lên nương nhìn tựa nàng tiên lạc bước trần gian. Đất rừng nhiều nên chăn nuôi có khá hơn, tuy nhiên những mặt hàng khác luôn thiếu, không đủ để bán cho dân. Tối hôm đó bọn chúng tôi chén bữa tiệc thịt bò chấm muối. Thịt bò là chính, cộng thêm rau rác. Có điều, ăn nửa chừng... Hết muối! Mọi người ngại ngùng nhìn nhau. Bọn tôi do ở đồng bằng nên giao thông thuận tiện, cái gì cũng thiêu thiếu nhưng muối thì không. Còn ở đây khi thoạt nghe nói hết muối tất cả đều chưng hửng, nhưng sau đó hiểu ra nên im lặng ăn cho hết phần trong chén. Quả thật món ăn không có muối rất khó ăn. Bữa tiệc đang giữa chừng bỗng dưng chùn lại, nhưng chúng tôi ý tứ vẫn cười nói huyên thuyên, vẫn thỉnh thoảng gắp thịt nhai trệu trạo cùng mọi người. Sau đó chừng năm sáu người chạy lại đưa cho chúng tôi những gói lá chuối khô, bên trong các gói ấy đâu chừng vài nhúm muối hạt. bọn tôi cầm những gói muối còn dính trên tay màu đen đen muội khói bếp, chắc là bà con treo trên gác bếp để dành. Chúng tôi rất xúc động, cám ơn người dân nhưng anh em không mở ra dùng và tới lúc này, không ai bảo ai, mọi người tiếp tục ngồi ăn mà không còn nghĩ tới chuyện muối, cả đoàn tiếp tục cuộc vui.
Thời gian ở Thăng Phước chúng tôi diễn được hai đêm. Tạm biệt người dân nơi đây để lên đường trở về Phòng nhận nhiệm vụ mới. Chia tay bà con với nhiều lưu luyến.