← Quay lại trang sách

Chương 2 Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc

Năm 1940, sau khi nước Pháp bị Đức Quốc Xã chiếm đóng ở bên trời Âu thì tại Đông Dương, Đô Đốc Decoux thời bấy giờ là toàn quyền Pháp bị áp lực của Nhật Bản, một đồng minh của Đức Quốc Xã, đòi đem quân đội Thiên Hoàng vào Bắc Việt để đánh tập hậu và chặn đường tiếp tế của quân đội Tưởng Giới Thạch ở miền Nam Trung Hoa, thực dân Pháp đã thỏa thuận cho quân đội Phù Tang mượn hải cảng Hải Phòng làm trạm dừng quân, mượn các căn cứ quân sự Gia Lâm, Lào Kay, Phủ Lạng Thương và Lạng Sơn để hành quân kiểm soát con đường tiếp tế cho Trung Hoa.

Khi quân đội Nhật Bản tới chiếm đóng Lạng Sơn thì người dân Việt nào cũng đều nghĩ tời Kỷ Ngoại Hầu Cường Để, một lãnh tụ của Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội, rể của Hoàng Tộc Phù Tang, hy vọng quân đội Thiên Hoàng giải phóng Việt Nam dành độc lập cho đất nước và một cuộc họp được triệu tập tại nhà xuất bản Á Châu, ở dốc Hàng Than gần đê Yên Phụ ở Hà Nội giữa nhà thơ Hồ Dzếnh và ba thanh niên Phát Diệm: Nguyễn Đình Minh tức Nguyễn Đình Thư, Trần Ngân tức Trần Bằng Phong và Nguyễn Duy Diễn.

Đây là bộ bốn người bạn nối khố, con chấy cắn đôi làm gì cũng có nhau, cuộc họp này có mục đích nhận định tình hình chung của đất nước và chúng tôi tỏ ra xúc động với hy vọng có thể hợp tác được với Nhật Bản trong cuộc chống thực dân Pháp dành độc lập cho Việt Nam, nhưng Hồ Dzếnh tỏ ra tình bơ kể lại cho anh em nghe câu chuyện:

‘Sau vụ xung đột quân sự ở Lư Cầu Kiều ở bên Tàu năm 1937 và Nhật Bản bắt đầu xâm chiếm Trung Hoa, tôi là một thanh niên lai, bố Tầu mẹ Việt, đã hăng say trở về Tầu, gia nhập đoàn quân của Thống chế Tưởng Giới Thạch, xung phonh kháng Nhật cứu quốc và khi chiến đấu ở bên Tàu, tôi được biết những chuyện hiếp dâm và tàn sát tập thể của quân đội Nhật Bản ở thủ đô Nam Kinh….

Câu chuyện Hồ Dzếnh kể lại làm cho mọi người có cảm tưởng là quân đội Nhật Bản tàn ác và sau này sự thực đã xẩy ra đúng như vậy, vì sợ quân lực Đồng Minh đổ bộ, Nhật Bản bắt đầu tích trữ lương thực và bắt thực dân Pháp nộp lúa gạo, gây ra trận đói năm Ất Dậu (1945) làm cho hơn 2 triệu dân bị chết đói.

Tuy nhiên các vụ nổi dậy và bạo động của dân Việt nổi lên chống thực dân Pháp ở Sài Gòn, Cần Thơ, Rạch Giá, Bặc Liêu, Đồng Tháp Mười vào năm 1940, tại Đò Lương, Nghệ An năm 1941, quân Pháp đã phải dùng đến bom, đạn để triệt hạ, làm cho lòng ái quốc của dân Việt tăng lên rất nhiều và cũng nhờ quân đội Nhật Bản kích thích rất mạnh với mục đích đẩy thực dân Pháp đến chỗ cùng đường.

Sau ngày căn cứ hải quân Hoa Kỳ Pearl Harbor bị không quân Nhật Hoàng tấn công ngày 7 tháng 12 năm 1941 và Hoa Kỳ khai chiến với Nhật Bản, quân đội Nhật Bản chiếm đóng hoàn toàn bán đảo Đông Dương và từ đó chiếm đóng khắp vùng Đông Nam Á Châu và Khối Thịnh Vượng Chung được Nhật Bản phát động. Đúng vào thời điểm này, bộ ba Minh, Ngân và Diễn được tăng cường thêm cha Hoàng Quỳnh, tuyên úy của phong trào Công Giáo Tiến Hành địa phận Phát Diệm và ‘nhà tôi’ Tuyết Minh nhập bọn, sau lễ kết hôn của chúng tôi ngày 22 tháng 1 năm 1942.

Tình hình đối với Giáo Hội Công Giáo, nhất là sau vụ dân chúng ở Nghệ An và Đò Lương nổi dậy và bạo động chống thực dân Pháp, được nghiên cứu rất kỹ lưỡng, chúng tôi nhận thấy có một phong trào chống Công Giáo giống như Văn Thân ngày trước, bắt đầu được dấy lên tại Thanh Hóa, nhiều tin phao đồn được tung ra nói các bà mụ (nữ tu dòng Mến Thánh Giá) và người công giáo đi bỏ thuốc độc ở các giếng nước ở huyện Thạch Thành và Nông Cống, do đó dân được cử ra canh giữ và người công giáo ở vùng này bị nghi ngờ và bị theo rõi.

Một nhận định được nêu ra là nếu Phát Diệm không có hoạt động thích hợp thì chắc chắn dân công giáo sẽ bị mang tiếng là không đóng góp gì trong công cuộc giải phóng quốc gia, do đó Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc được thành lập, tuy mang tên Cứu Quốc nhưng không có liên hệ gì trong giai đoạn đầu với phong trào Việt Nam Đồng Minh Hội tức Việt Minh mới được thành lập ở Thái Nguyên cuối năm 1941.

Một điểm khác cũng được nhận định thêm là đường lối tốt nhất để gây được ảnh hưởng đi sâu vào quần chúng là làm việc xã hội và việc thành lập Truyền Bá Quốc Ngữ được nhận định là phương tiện tốt nhất để nâng cao dân trí của dân nghèo mù chữ.

Được cử lên Hà Nội để xúc tiến thực hiện các lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ ở Phát Diệm, tôi và anh Trần Ngân đã tiếp xúc với cụ Nguyễn Văn Tố ở trường của phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ và anh Nguyễn Hữu Đang là tổng thư ký. Được biết phong trào Truyền Bá Quốc Ngũ được chính quyền thực dân Pháp dưới thời toàn quyền Đông Dương Đô đốc Jean Decoux chính thức cho phép thành lập năm 1940, gọi là để bù đắp vào những lỗ hổng của quá khứ với chính sách ngu dân của chế độ thực dân và mở đường cho việc nâng cao chương trình Việt Ngữ ở các trường tiểu học ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam.

Một lớp huấn luyện cho các giáo viên của lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ được tổ chức ở Phát Diệm do anh Nguyễn Hữu Đang hướng dẫn, với số giáo viên thụ huấn trên 30 người, làm sao chúng tôi quên được những bài học đầu tiên, dạy cho người nghèo mù chữ:

I tờ giống móc cả hai, i ngắn có chấm, tờ (t) dài có ngang.

O tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu.

U, Ư hai chữ khác nhau vì Ư có cái móc câu bên mình.

10 lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ được tổ chức tại Phát Diệm với 25 học viên mỗi lớp, chương trình này được kéo dài cho tới ngày Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc cướp chính quyền vào tháng 8 năm 1945. Những lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ là cơ sở tốt nhất để truyền bá tinh thần yêu nước bằng những bài học lịch sử nói tới những công cuộc khởi nghĩa đánh quân Tầu của cha ông chúng ta ngày xưa, nhằm cổ võ tinh thần quật khởi của con dân đất Việt nổi lên chống thực dân Pháp, đồng thời hầu hết giáo viên các lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ đều được học hỏi về chính trị để trở thành những cán bộ rất đắc lực của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc sau này.

Song song với việc tổ chức các lớp Truyền Bá Quốc Ngữ để hoạt động mạnh trong giới nông dân mù chữ. Mặt trận Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm cũng sửa soạn sẵn sàng cho giai đoạn sắp tới là quân đội Đồng Minh có thể đổ bộ lên bờ biển Việt Nam để tiêu diệt quân Nhật, Nên một cuộc hội thảo đã được tổ chức tại nhà các sư huynh La San trong khuôn viên nhà thờ Phát Diệm với một số tham dự viên rất hạn chế.

Ngoài cha Hoàng Quỳnh, sư huynh Jourdain và mấy anh em đầu não của Mặt Trận như tôi, Trần Ngân và Nguyễn Duy Diễn, còn có một số bạn trẻ cùng lứa tuổi, trong số đó có các anh Đinh Văn Khanh, Trần Huấn, Nguyễn Duy Liên, Lê Bá Kông, Vũ Ngọc Ánh. Tình hình thế giới đã được đem ra phân tích, chú trọng tới tình hình chiến sự giữa quân lực Đồng Minh và Nhật Bản ở vùng Đông Á Châu và Thái Binh Dương và nhiều kế hoạch hoạt động.

Trong đó có việc mở những lớp học Anh Ngữ do anh Kông phụ trách, vì Anh ngữ được xử dụng trong trường hợp quân lực Đồng Minh đổ bộ vào Bắc Việt, chắc chắn phải qua cửa biển Kim Đài, nơi sông Đáy đổ ra biển Nam Hải, chỉ cách Phát Diệm có 7 cây số. Các tham dự viên cuộc hội thảo đều được yêu cầu giữ kín những kế hoạch được thảo luận vì sợ cả mật thám Pháp, lẫn cơ quan tình báo Kempetai của Nhật Bản gây khó dễ hay bắt giữ.

Nhưng hỡi ôi! Chỉ ngày hôm sau cuộc họp, nhiều tin đã lọt ra ngoài khốn khó hơn nữa là người anh rể của một tham dự viên lại làm cho cơ quan tình báo Kempetai của quân đội Nhật Bản, nên sau đó ít lâu, tôi và Trần Ngân đã phải chạy một chuyến chối chết mới thoát khỏi tay bọn hung thần Kempetai nổi tiếng với những loại tra tấn kiểu tầu bay (treo người), tầu ngầm (ngâm nước) và xin âm dương (đánh chết lên chết xuống).

Nhờ phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ mà chúng tôi quen thân với anh Nguyễn Hữu Đang và cũng do đó chung tôi biết rất rõ về mặt trận Việt Minh là chữ tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Vì biết rõ Mặt trận Việt Minh được lãnh đạo bởi đảng Cộng Sản Đông Dương, một chi thể của Đệ Tam Quốc tế chủ trương vô thần, nên Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc không thể hợp tác với Cộng Sản vô thần được. Vì theo luật lệ của Giáo Hội Công Giáo, những người hợp tác với Cộng sản có thể bị rút phép thông công; nên trên danh sách chính thức của các đảng phái và đoàn thể trong Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh không có Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc mà chỉ có ghi tổ chức Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc do một đảng viên đảng Cộng sản tên Nguyễn Công Chính lãnh đạo.

Ngày 9/3/1945, Nhật Bản đảo chính Pháp, nền đô hộ của thực dân Pháp xây dựng trên 80 năm bị xụp đổ, tư lệnh quân đội Nhật Bản tuyên bố: ‘Người Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam để cùng nhau xây dựng Khối Đại Đông Á’. Vua Bảo Đại tuyên bố ngày 11/3/1945 hủy bỏ tất cả những hiệp ước ký với Pháp từ xưa và nền độc lập của nước Việt Nam bắt đầu từ đây.

Các đảng phái thân Nhật công khai xuất hiện: Việt Nam Phục Quốc, Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, Thanh Niên Ái Quốc Đoàn v.v..

Tiềm lực giải phóng quốc gia của con dân đất Việt liên tục chuyển mình và trong tinh thần ấy thanh niên Phát Diệm bắt đầu tham gia vào công cuộc làm lại lịch sử một cách hăng say hơn nữa.

Trong thời gian đô đốc Decoux là toàn quyền Đông Dương và thống chế Pétain là quốc trưởng bù nhìn của Pháp ở thủ đô tạm thời Vichy, thực dân tung ra phong trào ‘khỏe’, dưới quyền lãnh đạo của Ducouroy, nhằm ru ngủ thanh niên Việt Nam, các cuộc đấu bóng tròn và thi điền kinh được tổ chức rầm rộ trên khắp lãnh Việt Nam, suốt ngày thanh niên Việt Nam kéo ‘gân cổ’ lên hát bài Quốc Ca Pháp và nhất là bài ‘Marechal, Nous voilà devant toi le Sauveur de la France (Thưa Thống Chế, chúng tôi có mặt đây trước vị Cứu tinh của nước Pháp), nhiều thanh niên đi tham dự các cuộc tập họp này về bắt đầu bàn tán rất nhiều về tinh thần quốc gia của dân Việt và từ đây lòng dân bị trị bắt đầu thức tỉnh dưới sự thúc đẩy của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc.

Tinh thần ái quốc của thanh niên được bắt đầu khích động bằng việc liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu mà tôi là liên đoàn trưởng, thường xuyên tổ chức trình diễn văn nghệ với những tấn kịch có tính cách dân tộc nói lên những cực hình dưới thời đô hộ của giặc Tầu kéo dài hàng ngàn năm, mà mọi người đều có thể hình dung ra được những cảnh tù đầy và đàn áp của thực dân Pháp hay của Phát Xít Nhật đối với dân Việt.

Thêm vào đó lòng căm thù thực dân Pháp và Phát Xít Nhật cũng được khởi động lên khi dân Phát Diệm cùng với liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu tham gia vào chương trình cứu dân nghèo trong vụ đói năm Ất Dậu (1945) làm cho 2 triệu người Việt chết.

Một trong những lý do gây ra cuộc đói năm Ất Dậu là vì Nhật Bản bắt thực dân Pháp bắt dân Việt Nam phá ruộng lúa để trồng cây đay dùng làm bao tải, bán cho Nhật, hơn nữa trong vụ thu mua lúa gạo để cho quân đội Nhật Bản tích trữ, Nhật đòi 1, thực dân bắt dân Việt nộp 10, gây ra nạn đói vì Pháp chủ trương chính sách chính trị ‘dạ dầy’ tức là một khi đói thì không ai nghĩ tới đánh Pháp cả.

Tới mùa thu năm nắm 1945, sau khi Nhật Bản đầu hàng, nhiều kho gạo chứa hàng trăm ngàn tấn bị phát giác ở vùng núi Chinê ở miền Nho Quan phía Bắc tỉnh lỵ Ninh Bình do quân đội Nhật Bản và thực dân Pháp tích trữ, trong khi đó 2 triệu người Việt miền đồng bằng bị chết đói vì thiếu gạo ăn.

Một lý do nữa gây ra vụ đói năm Ất Dậu là hải quân Hoa Kỳ phong tỏa dọc suốt bờ biển Việt Nam và không quân Hoa Kỳ ném bom và bắn phá các cầu cống dọc trên quốc lộ số 1 làm cho nền giao thông Nam Bắc Việt Nam bị tắc nghẽn, gây ra cảnh tượng hết sức trái ngược: miền Bắc thiếu gạo ăn, dân chết đói nhưng thừa than đá, trong khi miền Nam thừa gạo ăn nhưng thiếu than đá nên nhà máy điện Chợ Quán ở Chợ Lớn phải dùng lúa gạo thay than đá đốt nồi ‘súp de’ để sản xuất điện lực.

Hỏi còn mối thù nào thâm sâu hơn mối thù này đối với thực dân Pháp và quân phiệt Nhật Bản làm cho hơn 2 triệu con dân nước Việt bị chết đói.