← Quay lại trang sách

Chương 3 Trận đói kinh khủng năm Ất Dậu-(1945)

Sau trận cuồng phong tàn phá mùa màng ở miền đồng bằng Bắc Việt hồi tháng 9 âm lịch năm Giáp Thân (1944), và bên trời Âu quân đội Đức Quốc Xả đã đầu hàng đồng minh, thực dân Pháp tăng cường việc thu thóc gạo để nộp cho quân đội Nhật Bản ở Bắc Việt, đây là ác tâm của thực dân Pháp muốn áp dụng chính sách chính trị "dạ dầy" đối với nhân dân Việt Nam ở miền Bắc và Bắc Trung Phần, vì rằng hễ dân đói bụng thì họ chỉ nghỉ làm sao tìm ra gạo để nuôi gia đình và không ai nghĩ tới việc chống lại chính quyền thực dân Pháp cả.

Sau vụ gặt tháng 10 năm 1944, hoa lợi đáng lẽ 3 phần thu về không được 1, trong khi đó chính quyền Pháp ở Bắc Kỳ dưới thời thống sứ Paul Chauvert đi kinh lý ở các tỉnh đốc thúc các quan lại và tổng lý cấp tỉnh, phủ, huyện, tổng và xã phải tận thu lúa thóc, nếu không nộp đủ số lúa thóc đã được ấn định các quan chức và tổng lý sẽ bị thải hồi. Đến đây là giai đoạn khổ não nhất cho giới nông dân, nếu ai không nộp đủ thóc lúa, nhà cửa sẽ bị tịch thu và phá bình địa.

Một tai họa khác xẩy ra ở miền Bắc là ngày Tết Nguyên Đán năm Ất Dậu, ngày 13 tháng 2 năm 1945, trời chưa bao giờ rét như thế ở Hà Nội, giữa trưa hàn thử biểu xuống 4 độ bách phân tức 40 độ Farenheit, ở bên Hoa Kỳ này thì mức rét này đâu đáng kể, nhưng ở Việt Nam khi không có gạo để ăn thì làm gì có áo ấm để mặc, có củi lửa để sưởi, nên mức cơ cực của người nghèo lên đến cực độ.

Ngày mồng 1 tháng 3 năm 1945, tức ngày 17 tháng giêng Ất Dậu, các báo ở Hà Nội đăng tin – Nhiều người chết đói quá rồi. Theo nhiều tin ở các địa phương, dân chết hàng vạn. Tại miền duyên hải Bắc Kỳ, ở nhiều nơi, chết cả nhà, cả xóm, hay gần hết cả làng. Nhiều dân quê thiếu ăn, kéo về các thành phố, mong kiếm được cơm ăn. Xác chết nằm lăn ở nhiều ngả đường ngay ở Hà Nội.

Ngày 4 tháng 3 năm 1945, báo chí ở Hà Nội đăng tin: Nhiều đoàn thể từ thiện quyên tiền, quyên gạo giúp đồng bào đói: từ Tết, riêng tại bãi Phúc Xá, bờ sông Hà Nội, đã cấp 2,500 xuất cơm, 850 áo chẽn bằng bông gạo, 850 nắm xôi.

Các đoàn Hướng Đạo ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và các tỉnh đã phát động chương trình ‘khất thực’, xin cơm để phát cho người nghèo đói. Tình hình đói kém mỗi ngày một thêm bi đát và ban ngày, người ta đi lại nói năng ồn ào làm át tiếng kêu xin, khóc lóc thảm thiết của những người già, trẻ thơ vô tội, về chiều, người đi lại càng ít, tiếng ồn ào giảm dần, chỉ còn lại tiếng kêu đói, tiếng khóc của trẻ thơ nhay vú mẹ không còn sữa, lại ré lên từng hồi nho nhỏ vì còn sức đâu mà khóc.

Ôi! Những con mắt đau khổ của người chị, anh, mẹ, bế em bế con, chỉ còn trông chờ người hảo tâm đi qua bố thí cho nắm cơm mới cứu được em, được con khỏi chết vì chính người mẹ, người chị cũng đang lả dần vì đói rét, cái rét cóng chết người của mùa đông năm Ất Dậu, chưa từng bao giờ rét như vậy.

Về khuya, không còn nghe tiếng khóc, rên ở ngoài đường nữa. Có ai biết đâu sự im lặng ấy đã đưa bao người về bên kia thế giới. Khi mặt trời vừa mọc, rải rác trước cửa nhà là những tử thi của người lớn, trẻ con, nhắm mắt không kín, đang được các anh em hướng đạo sinh liên đoàn Cụ Sáu và mấy thanh niên thiện chí thu góp, ‘thẩy’ lên chiếc xe bò do anh em kéo, chở về bãi chợ Năm Dân, Phát Diệm để đem đi chôn. Làm gì có áo quan hay quách, may lắm, mỗi xác chết được bọc trong mảnh chiếu cũ mà thôi.

Một chương trình "khất thực" được liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu tổ chức, các anh em hướng đạo sinh kể cả sói con và các trưởng chia nhau đi xin các nhà khá giả ở trong thị xã, để dành ra mỗi bữa một chén cơm, nắm thành từng nắm cơm nhỏ, thêm vừng, mè hoặc chỉ có ít muối, mỗi buổi tối anh em hướng đạo đi từng nhà, thu góp các nắm cơm lại, chia nhau đi phát cơm từng khu vực một. Một người đi phát cơm thì phải có 3 người hộ vệ, và những nắm cơm phải giấu kín trong người, nếu không cơm sẽ bị cướp giật ngay. Sau khi phát cơm, anh em lại còn phải hộ vệ cho tới khi người đói ăn xong, lúc đó mới đi chỗ khác.

Tận mắt thấy cảnh đói khát ở phố thị, tôi và nhà tôi bế con về thăm quê ngoại ở Hòa Lạc cách xa 4 cây số xem có khác gì chăng? Dọc đường đi, cách đây mấy tháng, nhà cửa cây cối còn tươi tốt, mà giờ đây từ đường lớn vào thôn xóm, mọi sự đều xơ xác, nhiều nền nhà nối tiếp bị trơ trụi, cả đến cây cối cũng bị chặt, giậu cây dâm bụt dùng làm ranh giới giữa các nhà chỉ còn trơ gốc và cành lá bị hái hết để làm thức ăn cho đầy bụng mà vẫn không khỏi chết đói. Nhiều người phải rỡ dần nhà đi bán đổi lấy mấy nắm cơm, nhưng cũng chỉ ăn được vài ngày là hết, trở thành vô gia cư đành kéo tới các thị xã, kiếm cơm ăn để rồi lại chết ở dọc đường, chết ở xó chợ.

Về đến nhà, trông thấy rất đông người tụ tập trước cổng, đang xì xụp húp tô cháo nóng, lách mãi lọt được qua cổng, vào tới sân, thì ông cụ ngoại hạ lệnh cho nhà tôi đưa con cho bà ngoại bế, để giúp đun nồi cháo, cỡ nồi 30 đặt trên 4 cục gạch. Mỗi buổi sáng các cụ đều cho nấu nồi cháo lớn, để phát cho những người trong làng bị lâm vào cảnh thiếu gạo. Công cuộc phát cháo tiếp tục cho tới gần mùa gặt mới chấm dứt, nên rất ít người trong làng bị chết đói.

Nếu những làng khác, những người giầu có xung phong nấu cháo cho dân đói, như công cuộc phát cháo ở làng Hòa Lạc, số người chết đói có phần nào giảm đi, nhưng vì chiến dịch thu mua lúa gạo của thực dân Pháp, và nhất là lòng tham vô đáy của các hương chức cường hào ác bá, nên số nhà giầu còn trữ được nhiều thóc gạo, chỉ đếm được trên đầu ngón tay mà thôi.

Số người chết đói rải rác trên khoảng đường phố chính ở thị xã Phát Diệm dài có 2 cây số rưỡi, có ngày đã lên tới 70 người. Việc chôn người chết đói cộng thêm việc khất thực mỗi buổi tối, bắt đầu vượt sức của anh em hướng đạo sinh, nên tôi nhân danh liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu cùng với cha tuyên úy Hoàng Quỳnh lên trình mọi việc cứu đói với Đức Giám Mục Nguyễn Bá Tòng, giám quản giáo phận Phát Diệm và cha chính Mai Học Lý và đề nghị thành lập Ủy Ban Cứu Tế có tính cách liên tôn giáo và rộng lớn hơn để cứu dân đói một ngày một đông.

Tháng 3 năm 1945, Ủy Ban Cứu Tế Kim Sơn được thành lập, với ban cố vấn gồm Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, cha chính Lý, cha chánh xứ Mai Đức Thạch, cha Hoàng Quỳnh và Sa Môn Trí Đức, sau này là Thượng Tọa Thích Trí Dũng, trụ trỉ ở chùa nghĩa trang Bắc Việt ở Tân Sơn Nhất, Sài Gòn; tri phủ phủ Kim Sơn Ngô Gia Lễ và các thân hào nhân sĩ như Hàn Quế, cụ Hàn Thành là thân phụ của tôi và cụ Hội Ngọc Ban hoạt động gồm các ông Nguyễn Đức HIệp, Trần Ngọc Ban, Trần Văn Triêm, Phan Như Kim, Trần Ngân (Bằng Phong), Nguyễn Đình Minh (Thư), Nguyễn Duy Chỉ, Nguyễn Duy Diễn, Nguyễn Đức Tuy.

Ủy Ban Cứu Tế đã tích cực hoạt động với sự hợp tác và hỗ trợ của các đoàn thể và đoàn thể nòng cốt trong công cuộc cứu đói vẫn là liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu.

Ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, Nhật Bản đảo chánh Pháp, ngày 10-3-1945 chính phủ Nhật Bản tuyên bố: ‘Nhật Bản giúp Việt Nam thực hiện độc lập’, ngày 11-3-1945, Viện Cơ Mật Triều Đình Huế tuyên bố: ‘Hiệp Ước Bảo Hộ ký năm 1884 bị bãi bỏ, Việt Nam khôi phục chủ quyền’, ngày 18-3-1945 vua Bảo Đại tuyên bố: ‘Từ nay đích thân cầm quyền theo nguyên tắc ‘Dân Vi Quý’ và sẽ chỉnh đốn quốc gia’.

Chiến dịch thu mua thóc gạo của thực dân Pháp đến đây chấm dứt, một cuộc họp của Ủy Ban Cứu Tế được triệu tập khẩn cấp. Một đề nghị được đưa ra: số thóc gạo mà các hương chức đã thu mua của dân chúng để nộp cho chính quyền Pháp, hiện còn một số được tích trữ tại mỗi làng, kể cả số thóc các hương chức ăn chận, cần được kiểm tra cấp tốc, để hoặc trả lại cho dân hoặc dùng số lúa gạo đó để cứu đói.

Ông Tri phủ Ngô Gia Lễ, cố vấn của Ủy Ban Cứu tế, lúc này có đủ quyền hành để hành động, liền ra chỉ thị cho hương chức các làng, xã trong kho và một ban Kiểm Tra được thành lập và liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu được ủy nhiệm điều hành công tác kiểm tra này.

Các huynh trưởng và các tráng sinh của liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu cấp tốc tuyển mộ thêm thanh niên có thiện chí ở mỗi làng xã, và những lớp huấn luyện được mở ra để các kiểm tra viên học hỏi phương cách kiểm tra, chiếu theo tài liệu và lời khai báo của các hương chức do phủ Kim Sơn chuyển giao. Do đó một số lớn lúa gạo được trả về cho dân chúng và số gạo do hương chức ăn chặn hoặc số lúa không trả về cho dân được vì cả nhà họ đã bị chết đói, đều được xử dụng trong việc cứu đói ngay trong làng đó.

Tuy nhiên, tình trạng đói kém mỗi ngày một thêm nguy kịch hơn, giá gạo chợ đen ở Hà Nội đã lên 600 đồng 1 tạ gạo xấu, 800 đồng 1 tạ gạo tốt, trong khi gạo bán "bông" của chính phủ không tới 100 đồng 1 tạ. Đồng bào Nam Bộ đã gửi giúp đồng bào đói ở Bắc Bộ: tiền quyên 165.150$10xu; 11 ghe gạo cộng 133 tấn gạo tính đến ngày 5-5-1945.

Lúa vụ chiêm ở miền đồng bằng Bắc Bộ đã cấy xong, nhưng mọi người đều lo sợ rằng cứ mức chết đói của thanh niên trai tráng gia tăng, vì đàn ông khỏe mạnh bao giờ cũng chết đói trước đàn bà và trẻ em, như vậy đến mùa gặt thì lấy ai gặt lúa đây. Điều nhận xét này đã được tôi trình bày trong phiên họp hàng tuần của Ủy Ban Cứu tế, nhưng chưa biết giải quyết ra sao thì may thay có tin 3 ghe chở hơn 30 tấn gạo và thóc, do đồng bào trong Nam Bộ quyên góp giúp nạn đói, đã cặp bến Kim Đài, cách Phát Diệm 7 cây số.

Tôi liền ‘vọt’ ngay lên gặp Tri phủ Ngô Gia Lễ, ‘vât lộn’ với ông này, thiếu điều rút giao "găm" để sống chết lấy bằng được 3 ghe gạo này. Sau cùng ông Phủ họ Ngô nhượng bộ ký giấy ra lệnh áp giải 3 ghe gạo vào Phát Diệm và trao số gạo thóc đó cho Ủy Ban Cứu Tế, với điều kiện gạo, thóc phải được tồn trữ tại Nhà Gạo của giáo xứ Phát Diệm.

Trong một phiên họp của Ủy Ban Cứu Tế, vấn đề xử dụng số gạo cứu đói được đưa ra bàn luận. Tôi đưa ra hai kế hoạch cứu đói:

1) - Dùng cả số gạo để phát chẩn, chia về từng làng tùy theo dân số, trao cho các hương chức phân phát.

2) - Nếu dùng số 30 tấn để phát chẩn đồng đều cho toàn dân, thì dân chỉ ăn được 5 hay 10 ngày là hết, và người đói tiếp tục chết đói. Vì còn tới gần 3 tháng nữa mới tới mùa gặt, nên tôi đề nghị là mùa lúa gặt có triển vọng được mùa, nhưng nếu các đàn ông trai tráng không sống được đến ngày đó thì sẽ thiếu người gặt, do đó cần phải chọn lấy 1000 người trai tráng còn khỏe mạnh, tập trung về nuôi cho ‘sống hẳn hoi’ tại trại Cứu Tế thiết lập ở khuôn viên nhà thờ Phát Diệm. Số người này sẽ được chọn tại từng làng, theo tỉ lệ dân số được cơ quan hành chánh địa phương thỏa thuận.

Con số "cứu hẳn hòi’' 1.000 người được tính trên căn bản mỗi ngày 300 grams gạo, như vậy nuôi trong 100 ngày là tới mùa gặt, vị chi là vừa đủ số gạo 30 tấn lấy được từ 3 ghe ở Nam Bộ ra. Biết rằng 300 grams gạo cho mỗi người mỗi ngày là hơi nhiều trong thời gian này, nhưng chấp nhận là số cơm được ‘chuồn’ qua hàng rào cho vợ con cầm cự đủ sống tời mùa gặt, như vậy số người được cứu khỏi đói còn tăng hơn nữa. Trên số 30 tấn ngũ cốc này, hơn nửa là thóc, nên nếu xay thành gạo thì chỉ nguyên số tấm không mà thôi, cũng có thể đủ nuôi 300 trẻ em và số cám cũng nuôi được một số người không ít.

Sau khi thảo luận rất sôi nổi, chương trình lập trại Cứu Tế ‘cứu hẳn hoi’ 1.000 thanh niên được chấp thuận, và liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu được trao trách niệm điều hành trại này. Cha Mai Đức Thạc, chính xứ Phát Diệm tình nguyện cho Trại Cứu Tế được xử dụng các trường học và 4 nhà thờ cạnh làm nơi trú ngụ, các cửa ra vào của khuôn viên nhà thờ Phát Diệm được rào lại và chỉ mở theo giờ giấc cho các giáo hữu tới xem lễ hay đọc kinh.

Cha Vũ Văn Hải, quản lý của nhà chung, nhận tồn trữ gạo, xay lúa ra gạo, tấm, cám và nấu thành cơm vị chi nhà chung mới đủ dụng cụ nấu cơm cho 1.000 người ăn 2 bữa mỗi ngày. Sa Di Thích Trí Đức nhận tích cực vận động các Phật tử tham gia vào công cuộc cứu đói.

Ông Tri Phủ Ngô Gia Lễ nhận ra thông cáo chỉ thị cho các hương chức đưa những người đàn ông trai tráng còn gọi là khỏe mạnh, ra trình diện vào những ngày được ấn định, để tùy đại diện của Ủy Ban Cứu Tế lựa chọn theo con số đã được thỏa thuận từ trước cho mỗi làng.

Sự lựa chọn này thật đau lòng và thương tâm không thể tả được, vì những người không được lựa chọn để tham dự trại Cứu Tế thi được coi như nhận án tử hình.

Một giai thoại đã xẩy ra là sau khi quê hương chúng ta bi chia đôi sau Hiệp Định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954, tôi có dịp xuống thăm một trại định cư của dân tị nạn cộng sản ở bên con đường liên tỉnh lộ Bạc Liêu xuống Cà Mâu gần khu Gia Ray, khi đang đi trên đường vào trại, tôi thấy một người đàn ông ăn mặc chững chạc đi ra, một người trong phái đoàn nói ông đó là trại trưởng trại tị nạn.

Khi trông thấy tôi, ông trại trưởng quỳ xụp ngay xuống đất rồi vái tôi ba vái, tôi rất đỗi ngạc nhiên, liền quỳ xuống đỡ ông ta đứng dậy và nói rằng:

Ông trại trưởng làm gì kỳ cục vậy?’

Ông này liền trả lời: ‘

Con lạy ba lạy để tạ ơn ông đã cứu sống con. Con là người ở tổng Hồi Thuần ở ngoài Bắc. Trong vụ đói năm Ấ Dậu, nếu ông không ‘nhặt’ con ra để xuống tham dự trại Cứu Tế Phát Diệm, thì nay con đã chết rồi, quá nửa gia đình con đã chết vì đói.

Cử chỉ này của người trại trưởng làm tôi sực nhớ lại cảnh tượng hằng ngàn người chết đói nằm bên đường phố, cảnh trẻ thơ nhay vú mẹ đã chết, cảnh tượng tôi cùng các trưởng và các em hướng đạo sinh, sắn tay áo lên, giúp việc chôn vùi hàng trăm xác chết bên bờ ruộng dọc theo sông Âu Giang hiền hòa, nhưng đầy nước mắt và tự hào là đã giữ được lời hứa của hướng đạo sinh.. Giúp đỡ mọi người bất cứ lúc nào…

Trại Cứu Tế 1.000 người đã được tổ chức theo kiểu hướng đạo, chia ra mỗi đội là 12 người, mỗi đội tự bầu lên đội trưởng, 4 đội họp thành một đoàn lấy tên một anh hùng của lịch sử Việt Nam và các đoàn trưởng hội họp lại với ban quản trị điều hành mọi công việc của trại dưới quyền lãnh đạo của tôi và một phó trại trưởng là anh Đỗ Ngọc Tân, một thanh niên rất có thiện chí.

Các hoạt động thường ngày của trại viên là ngoài những dịch vụ về vệ sinh, trật tự cùng học hành, có những lớp truyền bá quốc ngữ cho những người mù chữ, lại còn những lớp khác cho những người có trình độ học vấn cao hơn. Tất cả các trại viên điều được huấn luyện quân sự cơ bản do anh Nguyễn Như Ngọc tức Cửu, cùng một số cựu quân nhân phụ trách. Nay cụ Cửu là một trưởng lão trên 80 tuổi hiện đang tị nạn cộng sản tại Houston, Texas

.

Khi vừa nhập trại, các trại viên chỉ được ăn cháo loãng, ngày hôm sau được ăn cháo đặc hơn một chút và tới ngày thứ tư mới được ăn cơm, vì kinh nghiệm cho biết nếu cho người đói ăn cơm nhiều ngay, họ có thể chết bất tử. Sau đó một tuần lể ăn uống đầy đủ, sức khỏe đã được phục hồi phần nào, Ngoài việc tập quân sự và học hành, các trại viên bắt đầu nhận những công việc tiểu công nghệ như đan nát, dệt chiếu v.v.. để khi ra trại họ có được một ít tiền trong túi.

Trại Cứu Tế đã được đồng bào khắp nơi ủng hộ nhiệt liệt và giúp đỡ tận tình, vì ngoài vòng rào của trại có hàng ngàn vợ con của các trại viên sống một cách lây lất và ban trật tự của trại được lệnh ‘nhắm mắt’ để các nắm cơm nhỏ được chuyển ra ngoài hàng rào cho người thân của trại viên. Một điều đáng mừng là trong suốt thời gian trại không có người nào chết cả, và vấn đề y tế cũng được các nữ tu dòng Đứa Bà Truyền Giáo giúp đỡ tận tình.

Đồng thời với trại Cứu Tế cho người lờn, một trại cứu tế cho thiếu nhi cũng được tổ chức tại chợ Năm Dân, một lồng chợ rộng lớn được quây bằng phên, cót, chia ra thành nhiều khu, và 300 em bé cỡ từ 8 đến 13 tuổi được nhận vào trại. Các em bé này là những em mồ côi sống lây lất ở đầu đường só chợ sau khi bố mẹ chết đói, cộng với một số em bé do các nhà thờ và chùa trong vùng gửi tới, và ưu tiên là vẫn dành cho các em mồ côi.

Nhưng khốn nỗi là khi được nhập vào trại nhiều em đã bị đói lả lâu ngày, nên cứ trung bình mỗi buổi sáng trong 3 tuần lễ đầu, nhặt ra 12 hay 13 em bị chết trong ban đêm. Số này được thay thế ngay vì luôn luôn có số ghi hàng trăm các em đói chờ được nhập trại. Khẩu phần thường ngày của cám em là hai bữa cơm tấm và cứ hai ngày thì một ngày ăn cơm. Khi mới nhập trại các em phải ăn cháo tấm trong 5 ngày.

Trại trưởng trại Cứu Tế Thiếu Nhi là anh Kim Phát, một bầy trưởng rất hăng say, chịu khó và thương các em bé. Các phụ tá là các phó trưởng và tráng sinh cùng các em em Sói trong bầy Cụ Sáu lo cho các nam trại sinh và một số phụ nữ có lòng thương người tình nguyện giúp đỡ các nữ trại sinh. Các em trại sinh được dìu dắt sinh hoạt như sói con: học hát, học chơi, và học chữ, nhưng đa số đều bị kiệt sức, nên chỉ một số ít trại snh tham dự mọi sinh hoạt mà thôi.

Vụ lúa chiêm đã chín đầy đồng và mùa gặt sắp tới, ông Phan Kế Toại, Khâm Sai Đại Thần, đại diện Triều Đình Huế tới tham dự lễ bế mạc trại Cứu Tế, 1.000 trại viên cởi trần tiếp đón với khẩu hiệu ‘Tự Do, Cơm Áo’ và anh Đỗ Ngọc Tân, phó trại trưởng đọc bài diễn văn chào mừng bằng những lời thật đanh thép: ‘…Hằng triệu người Việt chết đói chỉ vì những bọn non, mọt già tham quan ô lại…’ anh Tân vừa nói vừa chỉ tay vào mặt Phan Kế Toại, làm cho hàng ngàn tiếng hô ‘Đả Đảo’ nổi lên vang trời. Ông Khâm Sai Đại Thần Phan Kế Toại bị một bữa xanh mặt, sợ hãi trước khí thế của 1.000 thanh niên trại Cứu Tế.

Nhiều người đặt câu hỏi: ‘Tại sao anh Minh, liên đoàn trưởng liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu, trại trưởng trại Cứu Tế, không đọc diễn văn mà lại là anh Tân?’ Thưa: ‘Cơ quan mật thám Kempatai của quân đội Nhật Bản đã chất vấn tại sao lại tập quân sự cho 1.000 thanh niên? Có phải tập quân sự để đánh lại quân đội Thiên Hoàng hay không?’

Với giọng điệu đe dọa, chúng đòi hỏi phải nhận một tên chó săn của chúng vào ban quản trị của trại, nên tôi với anh Trần Ngận cùng cha Hoàng Quỳnh phải rút về chiến khu Rịa của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc vì thời điểm của cuộc Tổng Khởi Nghĩa đã gần kề.