Chương 5 Mặt Trận Việt Nam Công Giáo-Cứu Quốc chống Pháp, chống Nhật-
Song song với việc thành lập chiến khu Rịa, Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc chủ trương rằng sức mạnh chính trong công cuộc chống Pháp, chống Nhật dành độc lập cho Tổ Quốc, đến từ phía quần chúng, mà quần chúng được coi như nước và lực lượng cách mạng là cá, cá chỉ có thể sinh sôi, nẩy nở trong nước và chính nước bảo vệ và nuôi dưỡng cá.
Yếu tố quan trọng nhất, trong việc vận động quần chúng dưới thời Pháp thuộc, là mọi việc kết nạp các chiến hữu của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc, phải được thực hiện trong vòng bí mật hoàn toàn và thường được diễn ra dưới hình thức hoạt động tôn giáo, xã hội, thanh niên và thể thao, ngay đến việc tổ chức chiến khu Rịa cũng diễn ra dưới hình thức di dân từ miền biển lên miền núi để canh tác đồn điền Rịa.
Trong công cuộc vận động quần chúng, một yếu tố khác cũng không kém phần quan trọng là việc kết nạp và huấn luyện các thành phần lãnh đạo của Mặt Trận, từ cấp nhỏ tới cấp cao về kỹ thuật vận động, tổ chức và hướng dẫn quần chúng trong công cuộc đấu tranh dành độc lập.
Với tư cách tuyên úy của đoàn thể Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành địa phận Phát Diệm, cha Hoàng Quỳnh đã tổ chức tại các địa hạt khác nhau trong tỉnh Ninh Bình. Dĩ nhiên việc huấn luyện về Công Giáo Tiến Hành là đề tài chính, nhưng nhiều thanh niên được lựa chọn một cách hết sức cẩn thận và được kết nạp để trở thành anh em kết nghĩa cùng hoạt động trong Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc.
Công cuộc kết nạp bạn kết nghĩa không những chỉ diễn ra trong phạm vi tỉnh Ninh Bình như với anh Phạm Quốc Trị sau này là lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng, anh Nguyễn Văn Xướng ở Đồng Chưa, Gia Viễn mà lại còn lan rộng ra khắp các tỉnh khác như anh Lưu Thế Lộ ở Bùi Chu; anh Nguyễn Quốc Quỳnh ở xứ Bính Trì, Phủ Lý, nguyên đại tá Giám đốc trường Chiến Tranh Chính Trị thời Việt Nam Cộng Hòa; anh Nguyễn Văn Quý ở Thường Tín, anh Nguyễn Văn Hiển ở Hà Nội, anh Nguyễn Văn Chương ở Hải Dương, linh mục Lê Quang Oánh ở Thái Bình và linh mục Dũng chính xứ nhà thờ tỉnh lỵ Phú Lý.
Cha Anselmô, Bề trên dòng Khổ Tu Châu Sơn tức Đức Cha Lê Hưu Từ đã kết nạp và tổ chức một hệ thống liên lạc và hoạt động của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc tại các xứ đạo ở dọc quốc lộ số 1 và từ đó lan ra khắp vùng từ Thanh Hóa qua tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị tới Thừa Thiên, trong chuyến ngài đi Huế bằng xe đạp để yết kiến Đức Khâm Sứ Tòa Thánh để xin từ chối chức vụ giám mục địa phận Phát Diệm.
Qua anh Lê Hữu HIển, em ruột của Đức cha Lê Hữu Từ, những hoạt động của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã lan tràn vào miền Nam Trung Bộ với anh Đoàn Văn KIểu và ở miền Nam Bộ với anh Nguyễn Hữu Lượng, đại diện Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành trong nhóm thành lập đoàn thể Thanh Niên Tiền Phong tại Sài Gòn ngày 21 tháng 4 năm 1945.
Lớp huấn luyện đầu tiên cho 30 giáo viên các lớp Truyền Bá Quốc Ngữ hồi giữa năm 1942 cũng là lớp huấn luyện có bàn về tổ chức cho thành phần nòng cốt của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và ảnh hưởng về tinh thần cách mạng của Mặt Trận đã đi sâu vào quần chúng, qua các học viên của các khóa học 3 tháng, của 10 lớp và đây cũng là phương tiện tốt nhất để nâng cao dân trí và dân nghèo mù chữ.
Ngoài việc tổ chức các trại huấn luyện cho Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành, cha Hoàng Quỳnh và chúng tôi thường đặc biệt chú y tới việc thăm viếng các đoàn thể Thanh Niên trong các xứ đạo ở vùng sơn cước điạ phận Phát Diệm, như xứ Khoan Dụ, Xứ Ngải, Vô Hốt, Trung Đồng và Đồng Chưa, với mục tiêu mở rộng khu chiến, bảo vệ cho chiến khu Rịa khi phải hợp tác với chiến khu Quỳnh Lưu của Việt Minh, hành quân chặn đánh quân phiệt Nhật Bản trên con đường chiến lược từ chợ Gành lên Nho Quan và Chi Nê là khu vực núi non hiểm trở mà quân đội Nhật Bản dùng làm hậu cứ tích trữ lúa gạo và khí giới đạn dược để tiếp vận cho mặt trận khi quân đội Đồng Minh đổ bộ chiếm đóng miền duyên hải Bắc Việt và Bắc Trung Việt.
Công cuộc tổ chức quần chúng quan trọng nhất của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc là Trại Cứu Tế, nuôi sống 1.000 thanh niên thoát khỏi nạn đói năm Ất Dậu (1945) làm chết 2 triệu dân Việt. Trong 3 tháng rưỡi sống tập trung, những thanh niên này đã được tổ chức thành hàng ngũ và được huấn luyện rất kỹ càng về đường lối đấu tranh của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, họ cũng được huấn luyện về kỹ thuật tổ chức quần chúng, hướng dẫn nhân dân trong công cuộc đấu tranh dành độc lập và cũng được huấn luyện về cơ bản quân sự để sẵn sàng tham gia vào công cuộc tổng khởi nghĩa.
Hồi tháng 5 năm 1945, đoàn Thanh Niên phủ Kim Sơn được thành lập và cuộc bầu cử chức vụ đoàn trưởng được tổ chức tại phủ lỵ Quy Hậu. Cuộc vận động tranh cử đã trở nên hết sức sôi nổi giữa ông Nguyễn Duy Chỷ là thúc phụ của anh Nguyễn Duy Diễn, một chiến hữu của Mặt Trận và ông Trần Ngọc Ban là anh cột chèo đối với tôi, ra tranh cử dưới danh nghĩa Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành.
Anh em chúng tôi đã bị kẹt cứng trong vụ tranh cử này vì cả 2 ứng cử viên đều là người có liên hệ gia đình, nhưng vì ông Nguyễn Duy Chỷ nhận lời hợp tác chặt chẽ với chúng tôi trong những hoạt động của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc nên tới ngày bầu cử 1000 thanh niên của Trại Cứu Tế đã được điều động đi bỏ phiếu, một thủ lãnh trong phe đối lập là ông Giáo Phương đã lớn tiếng thỏa mạ những thanh niên trong trại Cứu Tế đi bỏ phiếu là vì ‘cơm áo’, nên ông này liền bị áp đảo một trận tơi bời.
Sau đây là một giai thoại trong những cuộc đi thăm viếng các xứ đạo, một hôm sau khi đi thăm xứ Quảng Nạp ở huyện Yên Mô, cha Hoàng Quỳnh cùng với tôi đạp xe thẳng hướng chiến khu Rịa, tới chiều, sau khi băng qua quốc lộ 1 chúng tôi ngừng lại thăm đồn điền ông Phán Sử ở trên đường tỉnh lộ Chợ Gành đi Nho Quan. Chiều muộn, chúng tôi bắt đầu rời nơi đây đạp xe đạp về Chợ Rịa, đi được một quãng đường, trời sập tối, xe đạp của tôi có gắn dynamô điện, đèn chỉ đủ sáng lờ mờ, cha Quỳnh liền bảo tôi:
‘Này anh Minh, tôi có nhiều kinh nghiệm đi đường rừng trong đêm tối. Vậy khi gặp hổ rình trên lề đường để vồ người, hơi thở của hổ thường rất thối, đến khi ngửi mùi thối xông lên mạnh nhất là lúc hổ sắp nhẩy vồ mồi, vậy khi tôi hô ‘Đùng’ một tiếng, hổ sẽ nhẩy vọt đi và anh nhớ chúng mình phải cắm đầu cắm cổ đạp thật nhanh nghe không?’
Nghe cha Quỳnh nói, tôi cũng cảm thấy hơi e ngại, nhưng tin tưởng của cha cựu chính xứ Khoan Dụ trên miền núi rừng trước đây, nên tôi cũng yên tâm tiếp tục chăm chú đạp xe. Đi tới một quãng rậm rạp cây cối, tôi bỗng ngửi thấy mùi hôi, tôi nói: ‘Hổ’. Cha Quỳnh trả lời ‘Cẩn thận nhé’. Rồi nghe thấy tiếng ‘Đùng’, thế là chúng tôi cắm cổ đạp xe trối chết. 3 ngày sau trở về qua quãng đường này vào giữa trưa chúng tôi lại ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc, tôi hỏi: ‘Thưa cha, có phải cọp nữa không mà không thấy cha nổ tiếng ‘Đùng’, cha Quỳnh chỉ mím môi, nhăn mặt và nói: ‘Lại một người chết đói nữa, thân thối rữa bên đường, chúng ta hãy đọc một kinh Vực Sâu cho người chết’.
Chung tôi đã đạp xe từ chợ Rịa lên dốc dài 4 cây số, khi tới gần địa điểm, chiếc xe đạp St Elienne, cũ kỹ của cha Quỳnh đứt xích, thế là ngài đành phải cuốc bộ, vác xe đạp trên vai, lần mò trong đêm tối, miệng vẫn phải kêu ơi ới: ‘Cha Quỳnh đây, anh Minh đây’ vì sợ anh em canh gác báo động nổ súng.
Tới cơ sở đã quá nửa đêm, chúng tôi được anh em vui mừng đón tiếp, và câu hỏi đầu tiên của tôi hỏi anh Thuấn quản lý của trại là anh em có gì ăn không vì chưa ăn bữa cơm tối. Anh Thuần cho biết chỉ còn ít cơm nguội với muối vừng và vài củ sắn luộc. Cha Quỳnh và tôi đã được thưởng thức một bữa cơm đêm trên chiến khu Rịa ngon vô chừng kể.
Sau khi ăn cơm nguội xong, cha Quỳnh bắt đầu sửa xe đạp tới 2 giờ sáng mới xong để sáng hôm sau hạ sơn xuống xứ Ngài để kịp dâng lễ ban sáng, rồi ngài lại leo đồi núi về sinh hoạt với anh em trong chiến khu Rịa.
Nay cha Quỳnh đã về chầu Chúa, sau khi chết rũ tù ở khám Chí Hòa sau ngày Sài Gòn thất thủ năm 1975. Chúng tôi còn sống ở nơi trần gian này, nguyện đọc cho ngài một kinh để nhớ lại biết bao kỷ niệm cha và chúng tôi đã trải qua trên con đường tranh đấu chống hết Pháp đến phát xít Nhật Bản và sau hết chống Cộng Sản độc tài vô thần và tàn ác từ miền Bắc tới miền Nam Việt Nam.