← Quay lại trang sách

Chương 4 Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc lập chiến khu

Suốt quá trình mở nước và dựng nước, ông cha chúng ta đã tranh đấu gian khổ, vượt mọi thử thách để xác định sự có mặt của mình trong loài người đồng thời tiếp nối dòng sinh mệnh Việt qua mọi thời đại, chúng ta tự hào với thành tích, sự nghiệp vĩ đại ấy và kiêu hãnh khi lật trang quốc sử hùng cường oanh liệt của 4000 năm tranh đấu của tiền nhân.

Từ năm 1862, đất nước Việt Nam bị rơi vào vòng nô lệ của thực dân Pháp và năm 1940 chúng ta chịu thêm ách thực dân mới của quân đội phát xít Nhật Ban tới chiếm đóng những điểm chiến lược ở Việt Nam trong thời đệ nhị thế chiến, tuy nhiên thực dân Pháp vẫn được Nhật Ban dành cho quyền cai trị Việt Nam như trước, nhưng con cháu của tiền nhân anh dũng vẫn coi thường giam cầm đầy ải và giết chóc, kế tiếp nhau hoạt động không ngừng chống thực dân Pháp và quân phiệt Nhật Bản.

Năm 1940 tại Liễu Châu ở miền Nam Trung Hoa, các chính đảng Cách mạng Việt Nam gồm có:

-Đồng Minh Hội (Nguyễn Hải Thần)

-Việt Nam Quốc Dân Đảng (Vũ Hùng Khanh)

-Đại Việt Dân Chính (Nguyễn Tường Tam)

-Đại Việt Quốc Dân Đảng (Trương Tử Anh)

Họp hội nghị thống nhất hành động và thành lập Mặt Trận Thống Nhất Cách Mạng Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của cụ Nguyễn Hải Thần chủ trương hợp tác với Đồng Minh và Hoa Kỳ chống quân phiệt Nhật và thực dân Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam; Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh và Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh được cụ Nguyễn Hải Thần chấp nhận cho tham gia vào Mặt Trận và được phái về nước xây dựng cơ sở đấu tranh.

Ngày 19-5-1941, tại Hà Giang, Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh triệu tập một hội nghị gồm các tổ chức cách mạng hoạt động ở trong nước, trong đó có đảng Cộng sản Đông Dương cùng với một số thanh niên và trí thức, thành lập một Mặt Trận khác lấy tên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, cũng gọi tắt là Việt Minh, chủ trương bài phong, phản đế, diệt phát xít, giải phóng dân tộc Việt Nam và hợp tác với tổ chức Đệ Tam Quốc Tế của đảng Cộng sản Liên Xô.

Giữ hai Mặt Trận Việt Minh ở trong nước và hải ngoại chỉ có một khác biệt về danh hiệu là 2 chữ Đồng Minh và Cách Mạng, nhưng hành động tráo trở nửa vời này được coi là một thủ đoạn thâm sâu của Hồ Chí Minh dành thế thượng phong cho đảng Cộng Sản trong công cuộc giải phóng đất nước.

Trong khi thế tranh đấu cả ở hải ngoại lẫn trong nước, Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc tiến tới quyết định thành lập một chiến khu riêng tại Rịa ở triền núi cách con đường tỉnh lộ từ Chợ Gành đi Nho Quan, ở phía Bắc tỉnh Ninh Bình, độ 4 cây số, với quan niệm rằng chiến khu là một khu vực an toàn để huấn luyện các chiến hữu về phương diện quân sự và nhất là về kỹ thuật tổ chức và tuyên truyền để lôi cuốn được toàn dân tham gia vào công cuộc nổi dậy đánh đuổi thực dân Pháp và phát xít Nhật Bản dành độc lập cho tổ quốc.

Chiến khu cũng được coi như một căn cứ bí mật, có thể bảo đảm an ninh cho những chiến hữu về ẩn náu một thời gian trước khi được phái đi công tác ở các nơi, vì bị lộ thành tích cách mạng, bị mật thám Pháp hay Kempetai Nhật Bản theo dõi và đe dọa bị bắt giữ.

Tôi cùng với anh Trần Ngân tức Bằng Phong được Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc trao cho trách nhiệm tìm cách bắt liên lạc với các chiến khu của Việt Minh ở Thái Nguyên, Sơn La (Bắc Việt) và chiến khu Quỳnh Lưu ở gần Nho Quan để lập thế liên hoàn trong chiến lược chống Pháp, chống quân phiệt Nhật Bản.

Nhưng việc liên lạc với chiến khu Thái Nguyên qua anh Nguyễn Hữu Đang, tổng thư ký phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ, một nhà cách mạng trí thức, lãnh đạo cuộc Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, đều không đem lại kết quả mong muốn, riêng đối với chiến khu Quỳnh Lưu, do Nguyễn Văn Mộc và Đặng Kim Giang lãnh đạo đã cử Nguyễn Văn Tài làm liên lạc viên với chiến khu Rịa.

Chiến khu Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được thành lập ở làng Rịa trong ngay một đồn điền rộng hàng ngàn mẫu, dân cư ở làng này rất thưa thớt, số người sống ở khu vực dưới chân núi là người Kinh nhưng trên sườn núi hầu hết là người Mường, sống rải rác trên nhà sàn. Chủ nhân của đồn điền này, một người Việt sống ở Hà Nội, bạn thân của cha Hoàng Quỳnh, đồng ý cho Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được xử dụng tất cả mọi cơ sở của đồn điền, với danh nghĩa mang người miền biển lên canh tác, hòng che mắt thực dân Pháp và quân phiệt Nhật Bản.

Ngoài việc canh tác gọi là trồng khoai, trồng sắn để che mắt thiên hạ, mọi nổ lực của các chiến hữu đều đổ dồn vào công tác học quân sự, học tập tổ chức và tuyên truyền như in truyền đơn bươm bướm v.v.. bằng những phương cách ấn loát theo kiểu quay ronéo, tuy hết sức thơ sơ nhưng hữu hiệu, vì giấy stencile rất hiếm trên thị trường, không thể tìm ra được. Nên giấy này được thay thế bằng giấy bản ở các quyển sách chữ nho loạt thật tốt và mịn, nhúng giấy này vào sáp nến nấu lỏng và dùng dao cạo, cạo cho sạch nến, rồi mới đưa lên đánh bằng máy chữ, nếu những chữ nào đánh không thủng, thì lại dùng kim châm cho thủng hẳn.

Giấy bản thủng chữ này được dùng như tờ stencile, đặt trên mặt phẳng có sát mực in, sau đó đưa giấy trắng đặt lên dùng rouleau xoa nhẹ lên trên và kết quả tốt đẹp là hàng vạn tờ truyền đơn bươm bướm của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được ấn loát và được vận chuyển đi ‘tung’ ở khắp nơi và đặc biệt ở các nhà thờ, kêu gọi toàn dân đứng lên chống thực dân Pháp, diệt phát xít Nhật Bản dành lại chủ quyền đất nước Việt Nam.

Tổ ấn loát ở chiến khu Rịa do anh Trần Huấn phụ trách cùng với 6 bạn trẻ khác, anh Huấn là một phó đoàn trưởng tiểu đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu, là giáo viên trường tiểu học Nhà Chung Phát Diệm, có một thời giữ chức chủ tịch Ủy ban Hành Chánh Kháng chiến phủ Kim Sơn và hiện nay anh đang sống tị nạn ở vùng Los Angeles tiểu bang California. Một giai thoại đáng ghi nhớ là cụ Giáo, thân mẫu của anh Huấn đã tới ‘bắt đền’ tôi, vì anh Huấn là con trai duy nhất mà lại cùng chúng tôi đi hoạt động cách mạng mà nhiều người cho rằng ‘làm hội kín’ không bị Pháp bắt thì cũng bị Nhật ‘thịt’ chết.

Máy chữ loại có dấu tiếng Việt dùng vào việc đánh stencile giấy bản phải là loại thật tốt và rất hiếm trong thời chiến tranh. Có thể nói chiếc máy duy nhất loại này ở vùng Phát Diệm lại chính là của cô em gái của nội tướng của tôi là cô Lê Thị Bảo, trưởng ban Phụ nữ Công giáo xứ Hòa Lạc và do cha Nguyễn Gia Đệ, phó xứ Hòa Lạc đang xử dụng, Sau một cuộc" vận động" rất khéo léo cha Đệ đã trao máy chữ này lại cho tôi và coi đó như một sự đóng góp rất đáng kể cho công tác tuyên truyền của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc.

Trong một cuộc báo động ở chiến khu Rịa, chiếc máy chữ này đã được di tản ra bìa rừng có 2 ngày đêm, mà đã bị mối đùn đất lên bọc kín, mất bao nhiêu công lau chùi sửa chữa mới dùng lại được. Mực in, thời đó là đồ quốc cấm, được cung cấp bởi một chiến hữu làm việc tại nhà in Ngô Từ Hạ ở phố Lamblot, sau này là phố Lý Quốc Sư ở Hà Nội. Mực in được anh Thứ chở bằng xe đạp suốt từ Hà Nội về tới chiến khu Rịa, đường dài gần 150 cây số.

Sau khi phát xít Nhật Bản đảo chánh thực dân Pháp vào đêm ngày 9-3-1945, tổ ấn loát của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc được di chuyển từ chiến khu Rịa lên nhà Dòng Châu Sơn, cách phía bắc thị xã Nho Quan độ 3 cây số. Sở dĩ có sự di chuyển này là vì chiến khu Việt Minh ở Quỳnh Lưu dự định tiến quân đánh đại đội pháo binh Nhật Bản đóng quân ở khu chăn nuôi của nhà Dòng Châu Sơn mà bề trên của nhà dòng này là cha Anselmô, tên dòng của Đức Cha Lê Hữu Từ.

Anh Nguyễn Văn Cơ, tức là anh em cháu cô cháu cậu với tôi, đồng thời là tu sĩ ở nhà Dòng Châu Sơn được cha Anselmô phái về liên lạc với tôi và nhắn tin cần liên lạc với nhà dòng gấp. Khi nhận được tin, tôi và anh Trần Ngân liền tới nhà dòng ngay, vì cha Anselmô đối với tôi là chỗ thân tình từ trước. Mỗi khi về Phát Diệm, gặp ngày thứ năm là ngày họp hàng tuần của liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu, bao giờ ngài cũng dành thì giờ tới họp cùng với chúng tôi ở nhà trường công lập Lưu Phương. Cha Hoàng Quỳnh là tuyên úy của liên đoàn và chúng tôi đều coi cha Anselmô như cha tuyên úy thứ hai của liên đoàn vậy.

Sau khi hàn huyên, cha Anselmô đề nghị chúng tôi di chuyển một số cơ sở của chiến khu Rịa về nhà Dòng Châu Sơn, trong đó có tổ ấn loát. Chúng tôi vui mừng chấp nhận ngay và sau khi trở về Rịa, qua sự liên lạc của liên lạc viên Nguyễn Văn Tài, chiến khu Quỳnh Lưu của Việt Minh được thông báo về việc một phần khu Rịa được di chuyển về hoạt động ở khu vực nhà dòng Châu Sơn, nên việc dự định đánh phá Châu Sơn của Việt Minh ở chiến khu Quỳnh Lưu được hủy bỏ.

Sau đây là 2 giai thoại rất hăng say hoạt động của cha Anselmô tức Đức Cha Lê Hữu Từ, trong công cuộc sửa soạn Tổng Khởi Nghĩa dành Độc Lập của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc.

Sau khi một số cơ sở của chiến khu Rịa được di chuyển lên nhà dòng Châu Sơn, tôi thường ngủ ở phòng dành riêng cho các người đến tĩnh tâm ở nhà Dòng. Trong một đêm khuya lạnh lẽo của núi rừng, cha Anselmô đến đánh thức tôi dậy và dẫn tôi sang phòng khác khá kín đáo, sau khi đóng cửa, cha Anselmô liền nói:

‘Anh Minh ạ, tôi biết chắc chúng ta cần phải có nhiều khí giới đạn dược trong công cuộc giải phóng quê hương, vậy anh nghĩ thế nào? Nếu cần, tôi có thể mua được súng đạn kể cả súng đại bác nữa.’

Tôi liền vội vàng trả lời ngay:

‘Thưa Cha, trong công cuộc giải phóng quê hương, súng ống cũng cần như hơi thở vậy, xin cha cho con biết thêm chi tiết’.

Cha Anselmô nói:

‘Vị sĩ quan Nhật Bản, đại đội trưởng đại đội pháo binh đóng quân ở khu chăn nuôi của nhà Dòng đề nghị với tôi là ông ta có thể bán đủ loại súng ống và đạn dược, nếu chúng ta có vàng’.

Tôi rất vui vừng và vội vàng tháo luôn giây vàng nặng một lạng đang đeo ở cổ và cái nhẫn nạm ngọc thạch nặng 3 đồng cân, đặt trên bàn và nói:

‘Thưa Cha, giây và nhẫn vàng này, nhà con bắt con đeo để có thể bán đi lấy tiền mà xoay sở khi gặp hoạn nạn. Con xin cha đưa cho vị sĩ quan Nhật gọi là làm con tin, ngay ngày mai con về nhà, chắc chắn con sẽ có một số vàng đem lên để đổi lấy khí giới.’

Trở về phòng ngủ, lòng tôi xôn xao và vui mừng nên không thể nào nhắm mắt ngủ lại được, chờ tới 4 giờ sáng là giờ các thày dòng dậy đọc kinh ban mai, tôi vác xe đạp ra đi, nhưng chờ mãi tới khuya mới dám về nhà. Bàn thảo với nhà tôi là ủy viên tiếp tế của chiến khu Rịa và sau khi hiểu rõ mọi công việc, chúng tôi quyết định thu góp tất cả số vàng chúng tôi có sẵn, kể cả nhẫn cưới và nữ trang của hồi môn và còn lại đi vay mượn vàng ở các chỗ họ hàng. Riêng ông bà ngoại của cháu Minh HIền con gái của chúng tôi cũng đóng góp một số, nên chỉ sau 2 ngày, thu góp được một số vàng cũng khá.

Tôi rời nhà ra đi trong đêm khuya, mang nặng bịch vàng trên xe đạp, được anh Thứ cùng đạp xe theo hộ vệ trở về Châu Sơn. Số vàng đã được trao cho cha Anselmô và trong số vàng trao cho vị đại úy pháo binh chỉ huy đơn vị đóng quân ở khu Dòng Châu Sơn, hinh như cũng có một số ít trong số vàng của một đại điền chủ ở xứ Đồng Chưa ở Gia Viễn gửi ở nhà Dòng.

Sau khi nhận được vàng, một số súng trường và tiểu liên cùng súng liên thanh được quân Nhật Bản thoa dầu mỡ cẩn thận và ném xuống mấy khúc suối sâu nhất chảy qua khu nhà Dòng. Một số đạn dược được chôn trong những hố sâu ở sau nhà nuôi bò sữa, trong khu chăn nuôi của nhà Dòng, với lối giải thích là cần phải phế thải.

Sỡ dĩ có câu chuyện gọi là phế thải súng đạn để đổi lấy vàng là vì trong thời gian này quân đội Thiên Hoàng đã bắt đầu thua trận trên khắp chiến trường Đông Nam Á Châu và không quân Hoa Kỳ bắt đầu ném bom khốc liệt ngay trên đất Nhật Bản, làm binh sĩ Nhật Bản mất tinh thần. Vì thế mới có câu chuyện sĩ quan chỉ huy Nhật bán súng đạn đổi lấy vàng để phòng thân sau này.

Ngay sau khi cướp chính quyền hồi mùa thu tháng 8 năm 1945, cũng từ người sĩ quan chỉ huy này. chúng tôi mua thêm được mấy con ngựa tuyệt đẹp của đơn vị pháo binh Nhật Bản này.

Khi cha Anselmô, bề trên Dòng khổ tu Châu Sơn được Tòa Thánh Vatican cử lên lãnh chức giám mục, cai quản địa phận Phát Diệm, ngài tâm sự với tôi tại nhà Dòng Châu Sơn:

‘Tôi là thày dòng khổ tu, chuyên sống trong Dòng, ít tiếp xúc với đời, nay được Tòa Thánh cử lên lãnh chức giám mục cai quản địa phận, tôi thấy khó khăn quá, không biết có làm nổi được việc hay không?’

Rồi ngài tủm tỉm cười và nói với tôi:

‘Trong mấy chục năm sống trong dòng khổ tu từ Phước Sơn (Quảng Trị) ra đến Châu Sơn (Nho Quan, Ninh Bình), tôi chỉ đi chân đất và sống như người nghèo khổ nhất trong xã hội Việt Nam, nếu lãnh chưc giám mục, tôi phải đi giầy, không biết làm sao tôi đi nổi đây, nên tôi sẽ cùng một thầy nữa đạp đi vào Huế để gặp Đức Cha Khâm Sứ Tòa Thánh để xin ngài tâu sang Tòa Thánh tha cho tôi đặc ân này’

Và ngài nói tiếp:

‘Vì đường xe lửa vào Huế bị cắt nhiều nơi do bom của máy bay Mỹ, nên tôi phải đi bằng xe đạp, dọc đường tôi tìm tới các xư đạo để tá túc qua đêm, anh sửa soạn cho tôi một số truyền đơn bươm bướm của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc, tôi sẽ phụ trách phân phối và tuyên truyền cho Mặt Trận và liên lạc cùng tổ chức khắp nơi tôi sắp đi qua.’

Ôi! Thật là cơ hội bằng vàng cho Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cức Quốc được bành trướng suốt từ Bắc vào miền Trung và từ đó vào miền Nam. Hỏi còn chiến hữu nào đủ uy tín tuyên truyền cho Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và công việc giải phóng đất nước bằng vị bề trên của Dòng Khổ Tu Châu Sơn sắp vinh thăng giám mục địa phận Phát Diệm. Xe đạp của ngài chở đầy truyền đơn cộng thêm mấy khúc cơm nắm, muối vừng, hai bộ áo lót và quyển sách nguyện.

Sau hàng chục ngày ròng rã đạp xe trên đường quốc lộ từ Nho Quan vào tới Huế và khi trở về tới nhà Dòng, cha Bề Trên Anselmô tức Đức Giám Mục Lê Hữu Từ nói với tôi:

‘Cha đã thất bại, không chinh phục nổi Đức Khâm Sứ Tòa Thánh để xin được tha khỏi phải lên làm giám mục địa phận Phát Diệm, nhưng cha nói riêng với anh Minh rằng cha đã thành công trong việc tuyên truyền và tổ chức cho Mặt Trận Việt Nam Cứu Quốc của chúng ta tại một số giáo xứ trên dọc đường từ đây tới Huế.’

Cảm động và vui mừng vô xiết kể, tôi liền quỳ xuống hôn tay vị giám mục tương lai của địa phận Phát Diệm và vô cùng hân hoan được trở thành chiến hữu tranh đấu của một vị chủ chăn lừng danh yêu nước thường nòi và đã một thời làm Giám Mục Cố Vấn chính phủ cho Hồ Chí Minh, đồng thời là một chiến sĩ có thành tích chống Cộng Sản, chống thực dân Pháp một cách hào hùng và triệt để.