Chương 7 Lễ ‘trao kiếm’ tượng trưng thần quyền -
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh ra mắt dân chúng, tại công viên Cột Cờ Hà Nội, đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập và tuyên bố nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, cùng ngày đó tại trước phương đình nhà thờ chính tòa Phát Diệm, hơn 50 ngàn dân chúng họp mít tinh mừng ngày độc lập, nhưng lại được chứng kiến một lễ nghi hơi lạ mắt tỏ ra tinh thần chống cộng sản vô thần một cách cao độ của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc, đó là lễ ‘trao kiếm hiệp sĩ’ cho hai anh Trần Ngân và Nguyễn Đình Minh, lãnh tụ của Mặt Trận.
Tại sao lại có những sự trái ngược như vậy xẩy ra? Nguyên do là sau khi nghe tin Việt Minh cướp chính quyền ở khắp nơi, Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, năm đó 77 tuổi, giữ chức giám quản địa phận Phát Diệm, sau khi Đức Cha Phan Đình Phùng đột ngột qua đời ngày 27 tháng 2 năm 1944, tỏ vẻ lo sợ và có thể nói là ngài hoảng hốt vì nghĩ rằng vụ Việt Minh cướp chính quyền sẽ giống như cuộc Cách Mạng ở Pháp năm 1780 với những chuyện hàng giáo phẩm bị bách hại.
Cha chính địa phận Phát Diệm Lucas Mai Học Lý triệu tập một cuộc họp tại tòa Giám Mục, trong đó có cha Hoàng Quỳnh, tôi và anh Trần Ngân, để trình bầy với Đức Cha Nguyễn Bá Tòng về những hoạt động của Mặt Trận Công Giáo Việt Nam Cứu Quốc cùng với Mặt Trận Việt Minh, và một điều chúng tôi trình bầy làm cho Đức Cha Nguyễn Bá Tòng yên tâm là Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc có quyền võ trang cho các đoàn viên trong tổ chức gọi là Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc. Do đó thanh niên của mỗi xứ đạo sẽ được đoàn ngũ hóa và được huấn luyện quân sự cùng được võ trang để bảo vệ cho dân chúng trong giáo xứ và đóng góp vào công cuộc bảo vệ nền độc lập quốc gia.
Vấn đề đảng Cộng Sản nằm trong Mặt Trận Việt Minh cũng được mổ xẻ kỹ lưỡng trong cuộc họp này, tuy nhiên chúng tôi cũng trình bầy rằng đây là một vấn đề khá tế nhị trong giai đoạn đấu tranh dành độc lập cho đất nước và cảm thấy cần phải học hỏi thêm. Và một điều làm chúng tôi ngạc nhiên và thích thú là cha Mai Học Lý cho chúng tôi mượn một tài liệu vô cùng quý báu ‘Une somme catholique contre les Sans Dieu’ để rút kinh nghiệm về những cuộc bút chiến đã diễn ra ở Pháp giữa một số học giả người Công Giáo Pháp và bọn vô thần có khuynh hướng theo Cộng Sản. Sau đó chúng tôi cũng dựa vào đó để gây một cuộc bút chiến giữa tuần báo ‘Sống’ cơ quan chính thức của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và tờ báo Sự Thật cớ quan truyền thông của đảng Cộng Sản Đông Dương.
Sau khi anh Nguyễn Hữu Đang, trưởng ban tổ chức Lễ Tuyên Ngôn Độc Lập ở Hà Nội báo tin cho chúng tôi biết là ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 được chọn làm ngày Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn ở công viên Cột Cờ, một cuộc họp thứ hai được triệu tập cũng ở tòa Giám Mục, thêm sự hiện diện của cha Anselmô tức Đức Cha được chỉ định Lê Hữu Từ vừa từ Châu Sơn xuống Phát Diệm. Vấn đề tổ chức lễ tuyên bố Độc Lập được đưa ra thảo luận và hội đồng đồng ý về một chương trình tổ chức trao kiếm hiệp sĩ.
Đúng ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, sau khi hơn 50 ngàn dân chúng đã tề tựu đứng đầy sân phương đình và tràn qua hồ, Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, Cha Anselmô Lê Hữu Từ và cha chính Mai Học Lỳ ngồi ghế chủ tọa ngay trên phương đình. Sau các lễ nghi chào cờ, mặc niệm và bài tuyên ngôn được đọc lên, cha Hoàng Quỳnh tiến lên gắp dấu hiệu cờ đỏ sao vàng lên ngực của 3 vị chủ tọa, sau đó các anh Trần Ngân và Nguyễn Đình Minh tiến lên trong bộ quân phục kiểu sĩ quan Pháp, anh Ngân được Đ/C Tòng và anh Minh được cha Anselmô tức Đ/C Từ đặt kiếm lên vai và ban phép lành, giống như ở bên trời Âu nhận kiếm trước khi chiến đấu đánh đuổi quân Hồi chiếm giữ Tháng Địa vậy.
Cũng trong cuộc lễ này hai người ‘Dân Tây’ là ông Đỗ Văn Đàng và André Dzụ lên tuyên bố từ bỏ quốc tịch Pháp và được dân chúng hoan hô nhiệt liệt.
Cuộc trao kiếm hiệp sĩ đã gây nên nhiều tranh luận, mấy cán bộ cộng sản cho rằng lễ trao kiếm này chứng tỏ mấy ông ‘đầu sỏ’ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc muốn lãnh quyền cai trị từ nơi có thần quyền chứ không từ dân chúng, người khác lại nói rằng Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc cướp chính quyền ở Phát Diệm là nơi mà đa số dân chúng là công giáo, nên việc các Đức Giám Mục trao kiếm hiệp sĩ cho 2 lãnh tụ Mặt Trận này chẳng có gì là lạ cả.
Nhưng sự thực, việc trao kiếm hiệp sĩ này có ý nghĩa đặc biệt là tuy Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc nằm trong Mặt Trận Việt Minh lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản Đông Dương, mà ai cũng biết là Cộng sản chủ trương vô thần, nên việc trao kiếm này tượng trưng tinh thần độc lập của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đối với Mặt Trận Việt Minh trên phương diện ý thức hệ, đồng thời cũng chứng tỏ đường lối chống cộng sản vô thần, nhưng nhận hợp tác trong công cuộc dành độc lập tự do cho Tổ Quốc Việt Nam.
Việc trao kiếm hiệp sĩ này cũng coi như hành động hơi ‘ngông’ của 2 thanh niên Phát Diệm, tuổi mới 26 nhưng nhiều khi cứ muốn tự coi mình như là ‘rốn vũ trụ’, vì bửng mắt ra thấy cuộc cách mạng đã thành công, sau mấy chuyến vào sinh ra tử nơi chiến khu Rịa.
Làm sao lại không ‘ngông’ nhỉ, khi anh Ngân và tôi lên Hà Nội, rủ Nguyễn Hữu Đang, lúc ấy đang bận tíu tít vì đứng đầu ban tổ chức lễ Tuyên Ngôn Độc Lập cùng đi lên phố hàng Da với chúng tôi để sắm bộ quân phục của sĩ quan Pháp, với đôi ủng bằng da, lẫn thắt lưng và vỏ bọc kiếm cũng bằng da đánh xi bóng loáng, để mặc trong ngày lễ trao kiếm hiệp sĩ. Sau khi mặc thử bộ quân phục, tôi quay sang hỏi:
‘Anh Đang ơi, trông chúng tôi có được không?’
Đang khen:
‘Trông các cậu oai lắm’.
Không biết anh Đang nói đùa hay nói thật vì khi tới Hà Nội chúng tôi đã nói cho anh ấy biết chương trình của cuộc lễ tuyên ngôn độc lập ở Phát Diệm kể cả chuyện trao kiếm hiệp sĩ mà anh ấy không hề phản đối.
Đây là cảnh 2 thanh niên Phát Diệm hơi ngông gặp một thanh niên gốc Thái Bình lớn hơn 8 tuổi lại còn ngông hơn nữa, đúng vậy, ai dám bảo Nguyễn Hữu Đang không ngông! Khi làm bộ trưởng bộ Thanh Niên trong chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh, trưởng ban tổ chức lể Tuyên Ngôn Độc Lập, sau này khi ra bưng kháng chiến giữ chức Tổng Thanh tra Bình Dân Học Vụ, rồi đến 1954 về thành, Nguyễn Hữu Dang không nhận lời mời ra tham chính để trở về nhà làm nhà in, rồi ra tờ báo Nhân Văn để trở thành phản động đầu xỏ, để rốt cuộc lãnh bản án 17 năm tù.
Đến ngày nay anh Đang bị phát vãng về nơi sinh quán ở xã Vũ Công, huyện Quỳnh Côi tỉnh Thái Bình và mới đây nhà văn Phùng Quán có về thăm Nguyễn Hữu Đang đang sống một đời sống vô cùng đói khổ, đây Phùng Quán viết:
‘…Anh (Đang) chỉ vào một đĩa, giới thiệu thực đơn đãi khách: ‘Đây là thịt chả cóc băm viên. Đây là thịt chả nhái.. có cả mỳ chính, hạt tiêu nhá! Mười mấy năm nay nhờ bồi dưỡng thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khỏe, còn khá hơn cả chú….’
Sau nửa thế kỷ dài dằng dặc, đời sống của con người có biết bao nhiêu thay đổi, ai có thể tưởng tượng được rằng anh Nguyễn Hữu Đang, cựu bộ Thanh Niên của chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh, nay đang được bồi dưỡng bằng ‘ăn chả thịt cóc’ cầm hơi ở cái chái bếp căn hộ độc thân rộng khoảng năm mét vuông ở tỉnh Thái Bình.
Nếu Ơn Trên phù hộ và anh Đang có dịp đọc được những dòng chữ này, hay những ai biết được địa chỉ hiện nay của Nguyễn Hữu Đang, nghe đâu như đã về sống ở Hà Nội, xin cho tác giả biết.
Trong một cuộc lên thăm Hà Nội, Trần Huy Liệu, thuộc Tổng Bộ Việt Minh đã tiếp chúng tôi tại Bắc Bộ Phủ cùng vơi Nguyễn Hữu Đang để thảo luận về những vấn đề liên hệ tới mối liên lạc giữa Tổng Bộ Việt Minh với các tổ chức Công Giáo trên toàn quốc. Vì trong thời gian này trừ các địa phận Phát Diệm, Bùi Chu và Vĩnh Long do các giám mục Việt Nam quản nhiệm, còn tất cả các địa phận khác trên toàn quốc đều do các giám mục người Pháp hay Tây Ban Nha quản nhiệm, hơn nữa một số nhiều xứ đạo trên toàn quốc lại có các vị thừa sai ngoại quốc làm cha chính xứ.
Một trường hợp điển hình được đưa ra thảo luận là tại thành phố Nam Định, cha Vacquier, tên Việt Nam thường được gọi là Cố Cao, là một vị linh mục thừa sai người Phát hoạt động rất hăng say về thanh niên Công Giáo Tiến Hành và trong thời gian nạn đói đang giết chết nhiều người nhất ở Thái Bình và Bùi Chu thì Cố Cao, chính xứ Nam Định, đã cứu sống hàng mấy chục ngàn người thoát khỏi nạn đói bằng việc mộ họ vào làm phu cho các đồn điền cao su ở miền Nam Viêt Nam và nhờ ở ảnh hưởng rất lớn cũng như tài xoay sở tuyệt vời của Cố Cao, việc chuyên chở mấy chục ngàn người mới được trót lọt vào được miền Nam, vì đường vận chuyển đều bị tắt nghẽn gây ra bởi bom đạn của không lực Đồng Minh.
Cố Cao đáng được coi là vị cứu tinh của người nghèo đói, thì ngay sau khi cướp chính quyền, Việt Minh địa phương đã bắt giam Cố Cao và ông Tú Huyên, thủ lãnh Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành ở Nam Định. Cả Cố Cao lẫn ông Tú Huyên, sau đó đều bị Việt Minh địa phương thủ tiêu.
Sau cuộc thảo luận tại Bắc Bộ Phủ, Trần Huy Liệu cử tôi lãnh trách nhiệm vụ Ủy Viên Liên Lạc của Tổng Bộ Việt Minh với các tổ chức Công Giáo trên toàn quốc, tôi thấy rằng đây là cơ hội rất tốt để bành trướng thêm Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và bắt được liên lạc với tất cả các tổ chức công giáo trên toàn quốc.
Với nhiệm vụ mới này, tôi thường có dịp đi khắp đó đây trên toàn quốc để làm phận sự được trao phó. Cứ tưởng tượng một thanh niên công giáo, còn non choẹt vì tuổi mới có 26, đi trên một cái xe hơi hộp có cắm cờ, do tài xế lái tới tòa Giám Mục Hà Nội để nói chuyện với Đức Cha Chaize (Thịnh) về việc Việt Minh ở Nam Định bắt giữ Cố Cao, rồi lại có dịp khác xuống Hải Phòng để gặp xã giao Đức Cha Francois Gomez (Lễ), người Tây Ban Nha rồi lại dịp khác nữa cùng với cha Hoàng Quỳnh tới thăm cha quản hạt người Tây Ban Nha ở Kẻ Sặt.
Sau đó lại về tỉnh lỵ Hải Dương thăm anh Chương và đi đến đâu cũng tiếp xúc với các đoàn thể thanh niên công giáo, đọc hết bài diễn văn nọ đến bài diễn văn kia, tuy nhiên đề tài vẫn là những hoạt động của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và chiến khu Rịa trong hiện tại và tương lai.
Dù câu chuyện xẩy ra cách đây hơn nửa thế kỷ và ông Trần Huy Liệu nay đã ra người thiên cổ, nhưng viết đến đây tôi cũng muốn nói lên sự biết ơn của tôi đối với người lãnh tụ Cộng Sản này, nguyên do là vào ngày 12 tháng 12 năm 1946, hai tên tình báo Việt Cộng trong đó có một người tên là Thịnh, tiến tới bắt giữ và xích tay tôi cùng với bạn là Đỗ Ngọc Tân đẩy chúng tôi lên một chiếc xe đò và đưa chúng tôi vào ty Công An tỉnh Ninh Bình, giữ giam ở đó và tạm thời tôi bị rốt trong một xà lim.
Nhìn ra ngoài thấy bóng trưởng ty Công An Đào Gia Lựu và phó trưởng Nguyễn Văn Tài, đều là người quen. Đặc biệt anh Tài này trước kia là liên lạc viên giữa chiến khu Rịa và chiến khu của Việt Minh ở Quỳnh Lưu, nên thấy tôi bị giam ở xà lim, Tài hơi ngạc nhiên, sau đó Tài xuống tận nơi cho biết tên Thịnh ở ban an ninh của Vệ Quốc Đoàn bắt tôi và gửi ở ty Công an không nói rõ lý do và tội trạng. Tài nhận cho người về báo tin cho gia đình tôi biết và hạ lệnh không đóng cửa xà lim cùng cho đem cơm ở ngoài chứ không ăn cơm tù.
Nhà tôi được tin tôi bị bắt giam ở Ninh Bình, bèn gửi con cho bà ngoại, đi lên Hà Nội, để gặp Trần Huy Liệu, lúc đó Liệu đang sửa soạn rút ra bưng kháng chiến, tuy hết sức bận bịu nhưng Liệu đã viết một văn thư ra lệnh cho ty Công An tỉnh Ninh Bình thả tự do cho tôi ngay. Nhà tôi mang thư này và chờ mãi mới rời được khỏi Hà Nội, ngồi trên mui chuyến xe hỏa cuối cùng tối ngày 19 tháng 12 năm 1946 là ngày cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ ở Hà Nội và ở Bắc Việt.
Nằm trong xà lim, nghe rõ tiếng súng đại bác của Pháp, nổ rền vang ở Nam Định, vọng tới Ninh Bình cách xa 28 cây số, lòng tôi hồi hộp lo sợ cho số phận của mình thì ít, nhưng lo cho vợ tôi thì nhiều, vì không biết lúc này đã thoát ra khỏi Hà Nội hay chưa? Và may thay ngày hôm sau trưởng ty công an Đào Gia Lựu đã nhận được lệnh tha và đích thân xuống mở cửa xà lim và mời tôi đi về nhà.