← Quay lại trang sách

Chương 8 Tranh luận với Phạm Văn Đồng về lý thuyết xã hội Công Giáo và học thuyết Cộng Sản vô thần

Vào đầu thập niên 1940, cố Cao tức Père Vacquier ở nhà thờ tỉnh lỵ Nam Định, có mở một thư viện với khá nhiều sách vở do ông Hàn Hòa làm quản thủ thư viện. Biết tôi là người mê đọc sách, cố Cao đã cho tôi một đặc ân là được phép mượn từng lô sách bằng tiếng Pháp rất quý, đưa về nhà đọc, vì tôi ở Phát Diện cách xa thành phố Nam Định 57 cây số.

Vì đọc quá nhiều sách của thư viện, cố Cao đã gọi tôi là con chuột của thư viện (Tu es le rat de ma biblothèque), và sau khi làm lễ thành hôn vào đầu năm 1942, cả hai vợ chồng đều mê đọc sách cả, nên chúng tôi nghĩ rằng để có đủ sách để đọc, tốt hơn hết là mở một tiệm bán sách.

Tiệm sách của chúng tôi lấy tên là Sĩ Thành, ngoài việc bán đủ mọi loại sách và báo, chúng tôi lại có cái thú sưu tầm sách báo mà quý nhất là toàn bộ kể từ số 1 của báo Nam Phong của học giả Phạm Quỳnh, báo Phong Hóa và Ngày Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, và một số lớn các loại sách báo quý khác. Người giúp chúng tôi trong việc sưu tầm sách quý, cùng liên lạc với các nhà xuất bản là thi sĩ Hồ Dzếnh, người bạn chí thân của gia đình chúng tôi.

Trong các số sách bầy bán, có đầy đủ các loại sách của nhà xuất bản Hàn Thuyên, theo nhận xét của chúng tôi thì nhóm Hàn Thuyên chủ trương trình bầy học thuyết cộng sản dựa trên: Định luật tiến hóa (Evolutionism) của nhóm Cộng Sản vô thần, có khuynh hướng Đệ tứ Quốc tế thường được gọi là Trotskit. Một hôm, cha Phạm Ngọc Lưu, một chỗ thân tình với gia đình là giáo sư đại chủng viện Thượng Kiệm, đến thăm chúng tôi và mua sách.

Cha thấy chúng tôi miệt mài đọc các loại sách của nhà xuất bản Hàn Thuyên như: ‘Khỉ là Thủy Tổ của Loài Người’, ngài khuyên chúng tôi phải chọn sách để đọc, vì ngài cho rằng các loại sách này chủ trương nghịch với Công Giáo, và ngài có một cử chỉ khá độc đáo là bỏ tiền mua hết tất cả các loại sách của nhà xuất bản Hàn Thuyên bầy bán trong tiệm, nói là cần mua cho thư viện đại chủng viện. Sau đó, vào những ngày nghỉ, cha Lưu thường ra thăm và thảo luận với vợ chồng chúng tôi trong nhiều giờ đồng hồ về vấn đề duy tâm và duy vật cũng như về lý thuyết xã hội Công Giáo và học thuyết Cộng Sản vô thần.

Từ những cuộc thảo luận tư riêng với cha Lưu, một đề nghị được đưa ra để thành lập Trung Tâm Nghiên Cứu (Cercle d’Études) gồm có các đại chủng sinh thường được gọi là ‘các ông già’ trường Lý Đoán và các thanh niên có thiện chí họp nhau hàng tháng, để hội luận một cách công khai những đề tài liên quan đến công cuộc cải tiến xã hội theo lý thuyết xã hội Công Giáo được quy định qua các bản thông điệp lừng danh Rerum Novarum (Tân Sự) của Đức Giao Hoàng Leo XIII ra năm 1891, chủ trương một lý thuyết xã hội Công Giáo xây dựng xã hội trong tình bác ái.

Được thừa hưởng tình yêu Thiên Chúa, người Công Giáo có bổn phận truyền bá di sản quý báu ấy trong công cuộc cải tạo xã hội, vì bác ái là phương tiện hiệu nghiệm nhất và là phương tiện duy nhất hướng dẫn thế giới trên đường tiến bộ chân chính, chống lại chủ thuyết sai lạc của Cộng Sản vô thần chủ trương giai cấp đấu tranh.

Cuộc giai cấp đấu tranh của Cộng Sản thiếu sự công bằng và hợp lý vì Cộng Sản không cho đối phương, tức giai cấp đối nghịch với giai cấp vô sản, bất cứ quyền hạn nào kể cả quyền được sống. Với chủ trương ấy, khẩu hiệu phải tiêu diệt của cộng sản vô thần trước hết nhằm vào các tôn giáo nhất là giáo hội Công Giáo, mà cộng sản không ngần ngại sát hại vì cho rằng Công Giáo gieo rắc hạt giống bác ái yêu thương giữa nhân loại, đi ngược lại chủ trương gieo rắc hận thù để tiến tới giai cấp đấu tranh tiêu diệt tư bản để tiến tới thế giới cộng sản đại đồng.

Lý thuyết xã hội của Công Giáo: xây dựng một xã hội trong tình bác ái theo thông điệp Tân Sự (Rerum Novarum) đã được các quốc gia Tây phương xử dụng trong công cuộc cải tiến xã hội tiến tới việc nâng cao đời sống của giới công nhân và người nghèo, và công cuộc ấy đã thành công một cách rực rỡ, nên nhiều phong trào và đảng phái mang tên Xã Hội Thiên Chúa Giáo đã được dân chúng tín nhiệm bầu lên nắm giữ chính quyền ở các quốc gia này.

Để kỷ niệm sự thành công vượt bực của Thông Điệp Tân Sự vào năm 1921 Đức Giáo Hoàng Pio XI đã ban hành Thông Điệp Quadragesimo Anno (Đệ Tứ Thập Chu Niên) để bổ túc cho lý thuyết xã hội Công Giáo: xây dựng xã hội trong tình bác ái bằng một chính sách mới của Giáo Hội chủ trương bảo vệ quyền tư hữu của con người, chống lại học thuyết của cộng sản vô thần chủ trương vô sản hóa để gọi là tiến tới mục tiêu không tưởng: Thế giới cộng sản đại đồng.

Khi tranh luận về Đinh luật Tiến Hóa, nền tảng của học thuyết Cộng sản, chúng tôi biết rằng đối với triết học Karl Marx, Tiển hóa đồng nghĩa với đấu tranh, cách mạng và lao động. Đối với Marx chỉ có một thực tại là vật chất, ngoài vật chất ra không có những thực tế tâm linh, hoặc thực tế cơ giới nào nữa. Con người cũng như loài vật hay cỏ cây đều là kết quả của sự biến hóa vật thể.

Dưới con mắt của nhà sinh vật học, nguyên nhân chính của sự tiến hóa con người chỉ là một trong những tiến hóa của loài động vật có vú (mamalian evolution). Trong sự cấu tạo của vật thể và tác dụng sinh lý, con người theo định luật tiến hóa, như được chứng minh bởi những vật hóa thạch của các loài vật có vú, như khỉ được tiến hóa dần dần thành con người. Nhưng nếu đặt ngược lại câu hỏi rằng: ‘Đồng ý con người được tiến hóa dần dần từ một loài vật có vú, nhưng những loài động vật ấy cũng như cả vũ trụ này không tự nhiên mà có được, vậy nguyên chất hay vật chất đầu tiên được tiến hóa thành con khỉ để khỉ tiến hóa thành con người, tự đâu mà có?

Với quan niệm rằng vũ trụ và loài người cùng vạn vật không thể tự nhiên mà có được, điều này chúng mình là phải có một đấng Chí Tôn đã tạo dựng nên mọi sự. Đấng Chí Tôn đó chúng ta thường gọi là ông Trời, là Thượng Đế hay là Thiên Chúa và từ đó mới có những thực tại như vũ trụ, loài người và vạn vật.

Tổ tiên chúng ta từ thời xưa, thường quan niệm một các hết sức sâu sắc về ông Trời, và ngày nay, ngôn ngữ chúng ta thường nói hằng ngày chứng minh một định luật ‘Tạo Dựng’ (Creationism) trái ngược hẳn lại với định luật ‘Tiển Hóa’ (Evolutionism) của Cộng Sản.

‘Ngày xưa, trước tất cả mọi sự đã có ông Trời. Trời là một bậc quyền phép vô song ở trên cao, làm ra tất cả: Trái đất, núi non, sông biển mưa nắng. Trời sinh ra tất cả: loài người, muôn vạn vật, cỏ cây…. Từ mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao trên trời cho đến vạn vật ở mặt đất đều do Trời tạo nên.

‘Trời có con mắt thấy tất cả, biết hết mọi sự xẩy ra ở thế gian. Trời là cha đẻ muôn loài, xét đến muôn vật, thưởng phạt không bỏ ai. Do đó mà con người tin có đạo Trời, nhờ Trời, cho là Trời sinh, Trời dưỡng, và đến khi chết thì về chầu Trời.

‘Giang sơn của Trời là từ mặt đất lên đến trên cao, có chín tầng Trời, và chỗ giáp với đất là chân trời. Trời vô hình không nói, nhưng người ta tin ở đâu cũng có mặt của Trời, mọi việc đều do Trời định.

Ông Trời của Việt Nam thời cổ cũng được gọi là Ngọc Hoàng, từ khi văn hóa Trung Hoa tràn sang Việt Nam với đạo Lão

(trích: Việt Nam Văn Học Toàn Thư)

Người Viêt Nam chúng ta tin có ông Trời thì Cộng Sản vô thần lại quan niệm ngược lại nói rằng không có một cái gì hết: Ông Trời không, Thiên Chúa không, nhân loại không, thế giới không, chân lý không, không biết gì, không yêu gì, không tìm gì cả.

Con người Viêt Nam chúng ta từ cổ tới kim luôn luôn tin tưởng có ông Trời, tin có thần thánh và không phải mới hôm qua hay hôm nay người ta mới nói tới câu chuyện thần linh. Dưới hình thức này hay hình thức khác trong các động đá hồi thời thượng cỗ, người ta đã tìm ra vết tích tôn giáo, nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại được coi như như cây đuốc soi sáng cho thế giới như Plato, Plutarque đều là những người tin vào sự hiện hữu của ông Trời hay được gọi là Thượng Đế hay là Thiên Chúa.

Trong khi đó mấy nhà Duy Vật của cộng sản vô thần lại cho rằng: ‘Người là một con vật không bao giờ được thỏa mãn, bao giờ cũng mơ ước hạnh phúc, mơ ước được hiểu biết rộng rãi, luôn luôn muốn được yêu thương, muốn quyền cao danh vọng… Dưới những ảnh hưởng, những khuynh hướng không bao giờ được thỏa mãn ấy, lẽ dĩ nhiên con người phải tạo nên một ý niệm thần linh cao cả thâu gồm tất cả những ước vọng thèm muốn sau này. (L’Etoile contre la Croix của Dufay)

Theo Karl Marx, ông tổ của chủ thuyết Cộng sản vô thần cho rằng Ông Trời hay Thượng Đế hay Thiên Chúa chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người mà mọi vật trong vũ trụ đều do vật chất mà có, cũng như trí thông minh và tư tưởng của con người là sản phẩm của vũ trụ, con người không có linh hồn bất tử cũng như vũ trụ không do ông Trời hay Thiên Chúa tạo dựng nên cả.

Đối với các tôn giáo Karl Marx cho rằng tôn giáo chỉ là phản ảnh của cơ cấu kinh tế. Với định luật tiến hóa, tôn giáo bắt buộc phải biến hóa theo các chế độ kinh tế và đến giai đoạn thế giới cộng sản đại đồng, nhất định tôn giáo phải được khai tử.

Quan niệm về tôn giáo của Cộng sản đã hoàn toàn sai lầm, nếu Karl Marx và Lenin được tái sinh thì chắc chắn hai tay này sẽ thất vọng ê chề khi thấy rằng ngày nay, tôn giáo không hề bị khai tử, ngược lại chủ thuyết cộng sản đã bị tiêu diệt trên hầu hết khắp thế giới, như tại nước Nga, được gọi là ‘cái nôi’ của chủ thuyết cộng sản, đế quốc Cộng Sản đã bị khai tử và Giáo Hội Chính Thống Thiên Chúa Giáo đang trong thời kỳ hưng thịnh, sau hơn 70 năm bị bách hại vì chinh sách đàn áp của Cộng Sản vô thần.

Tất cả những cuộc hội luận trong các Cercle d’etudes đều được đúc kết lại và được in lại thành sách ‘Cần Hiểu Cộng Sản’ do nhà xuất bản Lê Bảo Tịnh ở Phát Diệm xuất bản năm 1947 và chính những cuộc hội luận này cũng giúp cho ban biên tập của tờ báo Sống, cơ quan chính thức Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc, do anh ruột tôi Nguyễn Đình Thịnh là chủ bút vào năm 1946, có đủ tài liệu để mở một cuộc bút chiến rất hấp dẫn, tranh luận về chủ thuyết cộng sản vô thần, với báo ‘Sự Thật’ cơ quan truyền thông chính thức của đảng Cộng Sản Đông Dương ở Hà Nội.

Trong suốt thời gian 7 ngày ở Phát Diệm để tham dự lễ thụ phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ và cuộc đại hội của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, Phạm Văn Đồng, bộ trưởng bộ Tài Chánh trong chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh, đều ở tại nhà tôi, và tôi có khá nhiều thì giờ để thảo luận với Đồng về đủ mọi vấn đề mà Đồng tỏ ra muốn tìm hiểu nhiều nhất là quan niệm của người Công Giáo đối với học thuyết Cộng sản vô thần.

Nhờ được ở điểm trước đó tôi được học hỏi và tham dự các cuộc tranh luận trong Cercle d’Etudes về đường lối và quan niệm của Giáo Hội Công Giáo đối với học thuyết cộng sản vô thần, cũng như lý thuyết xã hội của Công Giáo, nên những cuộc tranh luận của tôi với Phạm Văn Đồng có phần nào rất hào hứng, vì tôi là một giáo dân được coi là ngoan đạo, con cháu của những bậc tiền nhân, kiên trì giữ đạo Chúa trong thời gian cấm đạo dưới đời vua Minh Mạng và Tự Đức.

Trong những cuộc nói chuyện thân mật với Phạm Văn Đồng, tôi thường tâm sự rằng: ‘Theo chỗ tôi biết thì Đức Giáo Hoàng Piô XII nghiêm cấm người Công giáo không được gia nhập đảng Cộng Sản, vì đảng Cộng Sản chủ trương vô thần, và đối nghịch với Giáo Hội, và vì tôi là người công giáo ngoan đạo không đời nào tôi dám liều mình không vâng phục Đức Giáo Hoàng, vì tôi cho đó là một tội trọng’.

Phạm Văn Đồng, một người Cộng Sản thập thành, sau này nắm giữ quyền cao chức trọng nhất trong chính quyền Cộng Sản ở Việt Nam, tỏ ra thông cảm và rất chân thành đối với tôi, một thanh niên tuổi đời mới có 26, chưa có nhiều kinh nghiệm cách mạng nhưng hăng say vì Thiên Chúa và Tổ Quốc.

Chính những sự chân thành của Phạm Văn Đồng đối với tôi trong 7 ngày ở Phát Diệm, cũng như trong những cuộc tiếp xúc ở Hà Nội sau đó, và dù rắng không hề gặp lại nhau trong gần nửa thế kỷ, việc được tin Phạm Văn Đồng quy y Phật Giáo bởi Đại lão Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, không làm cho tôi ngạc nhiên.

Một điều Phạm Văn Đồng nói mà tôi không bao giờ quên về việc đảng Cộng Sản Đông Dương sắp tuyên bố tự giải tán để đoàn kết và đại đoàn kết quốc gia trong công cuộc đấu tranh dành độc lập cho Tổ Quốc, và đúng vậy thật vì ngày 11 tháng 11 năm 1945 tức là một tuần lễ sau khi Đồng nói điều đó với tôi thì đảng Cộng Sản Đông Dương chính thức tuyên bố tự giải tán.

Việc đảng Cộng Sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, không phải là một điều lạ lắm, vì thời gian này Hồ Chí Minh bị đe dọa rất nhiều bởi quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch tới Việt Nam, đại diện Đồng Minh tước khí giới quân đội Nhật Bản. Thống Chế Tưởng Giới Thạch, tổng thống của một nước Trung Hoa chống Cộng Sản, không thể chấp nhận Mặt Trận Việt Minh, lãnh đạo bởi đảng Cộng sản Đông Dương nắm chính quyền ở Việt Nam, nhất là vào đúng thời gian này quân Cộng sản Trung Hoa của Mao Trạch Đông bắt đầu chiếm đóng Mãn Châu, khơi mào cuộc chiến tranh Quốc Cộng ở Trung Hoa.

Ngoài ra các đảng phái quốc gia chống cộng cũng hoạt động rất mạnh ở Hà Nội, báo Việt Nam Quốc Dân Đảng và báo Đồng Minh của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội đã kích Việt Minh Quốc Dân Đảng cùng một số đồng chí và quân Việt Quốc về tới Hà Nội vào ngày mồng 6 tháng 11 năm 1945, cụ Nguyễn Hải Thần ra thông cáo vào ngày 8-11-1945 đòi Hồ Chí Minh phải áp dụng thỏa hiệp mà họ Hồ đã ký kết ở Liễu Châu bên Trung Hoa vào ngày 23 tháng 3 năm 1944 về việc chính thức thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và đòi thành lập Chính Phủ Liên Hiệp.

Được hiểu là mọi hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng như của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội đều có sự yểm trợ mạnh mẽ của tướng Lư Hán, tư lệnh quân đội Trung Hoa Quốc Gia, nên Hồ Chí Minh sợ rằng nếu còn giữ đảng Cộng sản Đông Dương trong chính quyền, quân đội Trung Hoa có thể lật đổ chính phủ Việt Minh Cộng sản nên đảng Cộng sản Đông Dương phải tuyên bố tự giải tán và đến ngày 19-11-1945, các lãnh tụ Việt Quốc và Việt Cách thỏa hiệp với Hồ Chí Minh về việc thành lập chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia.