← Quay lại trang sách

Chương 10 Tổ chức và võ trang các đoàn thể công giáo cứu quốc

Đối với Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, vấn đề võ trang cho lực lượng Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc là ưu tiên số một trong suốt quá trình đấu tranh của mặt trận trong công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp, chống phát xít Nhật Bản dành độc lập cho Tổ Quốc, ngay từ khi bắt đầu thành lập chiến khu Rịa năm 1944, cũng như sau này khi Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc khởi sự các thánh chiến chống cộng sản vô thần tại Phát Diệm, Bùi Chu.

Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc (MTVNCGCQ), quan niệm rằng mỗi khi các giáo xứ đều tổ chức một lực lượng tự vệ công giáo được võ trang một cách hợp pháp đối với chính quyền vì MTVNCGCQ nằm trong tổ chức của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh, điều này chứng tỏ người công giáo nhiệt thành đóng góp vào công cuộc chung chiến đấu thực sự dành độc lập cho Tổ Chức, đồng thời với lực lượng võ trang sẵn có, việc giữ gìn an ninh cho giáo xứ cũng như làng xóm, được bảo đảm trong thời kỳ loạn lạc và chiến tranh.

Nên ngay sau khi đi Hà Nội để phản đối việc Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ với Pháp, trở về tới Phát Diệm, Đức Cha Lê Hữu Từ đã triệu tập ngay ủy ban lãnh đạo MTCGCQ gồm cha Hoàng Quỳnh, Trần Ngân và tôi Nguyễn Đình Minh, tới tòa Giám Mục để bàn thảo về tình hình chính trị chung của đất nước, và hoạch định đường lối của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc trong giai đoạn cực kỳ khó khăn gây ra bởi việc Hồ Chí Minh bán nước cho Pháp.

Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ ngày mồng 6 tháng 3 năm 1946, chấp nhận Việt Nam chỉ là một quốc gia tự do trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp và cho phép quân đội Pháp đóng quân tại nhiều địa điểm ở miền Bắc, từ vĩ tuyến thứ 16 trở lên, với thâm ý hòa hoãn với Pháp để đuổi quân đội Tầu về nước, hòng tiêu diệt đảng phái quốc gia.

Từ trước đến giờ, người ta thường nói tới mối liên hệ giữa các vị thừa sai người Pháp và người Công Giáo Việt Nam, nên chính sách của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã được hoạch định một cách thật minh bạch là cương quyết chiến đấu chống thực dân Pháp và kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam triệt để chống Pháp dành độc lập thực sự cho Tổ Quốc, và không chấp nhận quy chế một nước Việt Nam trong Liên Bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp như Hồ Chí Minh đã ký kết với Pháp trong Hiệp Định Sơ Bộ.

Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc cũng chủ trương đứng ngoài chính quyền nhưng ủng hộ chính phủ liên hiệp kháng chiến và hoạt động đôc lập trong giới hạn của luật pháp quốc gia để kiện toàn việc tổ chức các đoàn Công Giáo Cứu Quốc cùng đặt vấn đề võ trang cho các đoàn tự vệ công giáo là ưu tiên số một.

Dù đảng Cộng sản Đông Duong trong Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh tuyên bố tự giải tán ngày 11-11-1945, nhưng các đảng viên đảng Cộng sản vô thần vẫn còn tại vị, nên Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc khẳng định rằng lập trường của Mặt Trận VNCGCQ cương quyết chống đổi đến cùng chủ thuyết Cộng Sản Vô thần.

Giáo Hội Công Giáo đã ban hành nhiều thông điệp phi bác chủ nghĩa vô thần, đặt biệt là Thông Điệp pini Redemptoris ngày 19-3-1937, của Đức Giáo Hoàng Piô XI, và dựa vào thông điệp này Hội Đồng Giám Mục dã phổ biến một thư chung cấm người Công Giáo không được tham gia các tổ chức của người Cộng Sản vô thần. Theo như điều 2140 của sách bổn của Giáo Hội Công Giáo thì việc theo chủ thuyết vô thần được coi như bác bỏ hay chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa như vậy là một tội trọng, phạm vào điều răn thứ nhất, nguyên văn điều 2140 bằng tiếng Pháp như sau: ‘En tant qu’il rejette ou refuse l’existence de Dieu, l’atheisme est un péché contre le premier commandement’.

Ngoài việc gia nhập đảng phái chủ trương chính sách vô thần là một tội trọng, việc người công giáo gia nhập vào các đảng hay các hội có âm mưu chống lại Giáo Hội Công Giáo đều bị cấm theo Giáo Luật hiện hành: Điều 1374 quy định: ’Ai ghi tên vào một hội âm mưu chống lại Giáo Hội sẽ bị phạt xứng đáng. Ai phát động hay điều khiển hội ấy, sẽ bị phạt cấm chế’.

Trong chiều hướng phụng sự Giáo Hội và Tổ Quốc, cùng cụ thể hóa chính sách của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, ngày 26 tháng 4 năm 1946, Đức Cha Lê Hữu Từ đã gửi thư luân lưu số 7 cho các linh mục trong địa phận Phát Diệm, thúc giục việc thành lập các đoàn Công Giáo Cứu Quốc, ngài viết:

'...Nhân dịp, tôi cũng xin nhắc lại cho các cha một lần nữa là xin các cha nhắc nhở cho con chiên bổn đạo và nhất là các thanh niên đừng có ai vào phái đảng nào hết. Trong lúc này nhiều người lợi dụng danh nghĩa tôi mà đi tuyên truyền bậy bạ. Tôi chỉ xin các cha cổ động và thành lập cho mau chóng trong xứ các đoàn Công Giáo Cứu Quốc là cái mà chính phủ đã cho phép chúng ta được tổ chức để huấn luyện người Công Giáo cho biết phụng sự Giáo Hội và Tổ Quốc…’

Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc chủ trương đứng ngoài chính quyền và hoạt động trong giới hạn của luật pháp quốc gia để tiến tới viêc võ trang cho các đoàn Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc, Đức Cha Lê Hữu Từ ra một thông tư đề ngày 8-2-1946, trong đó có vấn đề mua võ khí, Đức Cha Lê Hữu Từ nói:

‘…Các cha còn nhớ: ngày cụ Hồ Chủ Tịch về thăm chúng ta, tôi đã hứa sẽ tổ chức ngay các đoàn Công Giáo Cứu Quốc để huy động lực lượng toàn thể quôc dân ủng hộ chính phủ. Ủng hộ chính phủ đó là mục đích của ta, đó là con đường độc nhất của ta. Vậy nơi nào chưa lập xong (Đoàn Công Giáo Cứu Quốc) thì một lần cuối cùng nữa tôi xin các cha ở những nơi ấy thu xếp cho mau chóng. Tôi đã xin phép Chính phủ lập trường quân chính và xin phép mua mấy khẩu súng để cho các đoán luyện tập cho gọi là biết chút ít hòng một khi Tổ Quốc cần thì ta có người ta hưởng ứng ngay’.

Trong tinh thần đứng ngoài chính quyền của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, ủy ban hành chính phủ Kim Sơn, một sản phẩm của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc sau cuộc ‘cướp chính quyền’ sau ngày 19 tháng 8 năm 1945, cũng được trao lại cho ông Nguyễn Duy Chỷ, một cảm tình viên của Mặt Trận VNCGCQ, đảm nhiệm chức vụ Chủ Tịch, sau một cuộc bầu cử và được Ủy Ban Hành Chính tỉnh Ninh Bình chấp nhận. Trong suốt thời gian nắm chính quyền ở phủ Kim Sơn, chúng tôi đã tổ chức xong những cuộc bầu cử ủy ban hành chánh các xã trong 7 tổng: Chất Thành, Hồi Thuần, Quy Hậu, Hướng Đạo, Tự Tân, Truy Lộc và Lai Thành.

Thể theo tinh thần Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc cương quyết chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc, đại đội Vệ Quốc Đoàn phủ Kim Sơn, do chúng tôi thành lập sau ngày ‘cướp chính quyền’, cũng xung phong xin được vào Nam đánh giặc Pháp, và đại đội này được chuyển vào Nam tham gia mặt bao vây thành phố Nha Trang và đóng quân ở đèo Rù Ri.

Sau khi quân đội Pháp, đổ quân từ Ban Mê Thuột theo đường quốc lộ 21, xuống Ninh Hòa, đánh bọc hậu, đại đội này đã phải rút quân theo đường núi ra Quy Nhơn để trấn giữ tỉnh lộ 19 từ Pleiku xuống và đóng quân ở Phú Phong, trong một trận đánh ở thị xã An Khê, trung đội của anh Tràng, người ở trại Ba Đê, Phát Diệm, đã phá vỡ cầu đúc An Khê và trong trận này, một số linh Pháp bị tử thương.

Trong số các binh sĩ thuộc đại đội Vệ Quốc Đoàn Kim Sơn bị tử thương ở 2 mặt trận Rù Ri và An Khê, có một người bạn thân của tôi học cùng lớp nhất ở trường Nhà Chung Phát Diệm là Vũ Xuân Lan, con cụ Bảng Ro, ở làng Định Hưởng tổng Hồi Thuần. Anh Trân, một trung đội trưởng của Vệ Quốc Đoàn Kim Sơn, nghe nói sau này lên tới chức tướng của bộ đội Việt Minh.

Việc võ trang cho lực lượng Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc trong công cuộc chống Pháp dành độc lập và chống cộng sản vô thần, đã được phát động một cách chính thức, vì có sự đồng ý của chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia, và nhiều vụ thu, mua, chế tạo võ khí đã được thực hiện khi công khai, khi bí mật, không những chỉ riêng ở trong nước mà thôi mà Phát Diệm còn tổ chức gửi phái đoàn sang điều đình mua súng đạn ở tận bên Tầu nữa.

Một thanh niên công giáo tên Trần Điển, người xứ Trà Cổ ở Vạn Ninh thuộc Móng Cáy, sát biên giới với Trung Hoa, thường chở đĩa, bát về bán ở Phát Diệm, mà dân địa phương thường gọi là ‘thuyền bát’, hay thuyền Trà Cổ, cho biết tin có một sĩ quan quân đột Nhật Bản đóng ở Port Valluy gần Cẩm Phá trong vịnh Hạ Long muốn bán một số súng ống đạn dược đủ để trang bị cho một trung đoàn bộ binh.

Khi được tin này tôi đã cùng anh Điển đi tới Port Valluy tiếp xúc với vị sĩ quan Nhật Bản này để xem thực hư thế nào và sau một cuộc điều đình khá gay go, sĩ quan Nhật Bản này đặt giá bán là 2 triệu đồng bạc. Số tiền đòi hỏi này được coi như rất lớn thời bấy giờ, nên khi trở về Phát Diệm, chúng tôi đặt kế hoạch là trình bầy cùng chính phủ, xin phép tổ chức một cuộc quyên tiền trong giới Công Giáo không mà thôi, và nếu mua được số súng đạn này chúng tôi sẽ tổ chức một trung đoàn bộ binh gồm các thanh niên công giáo xung phong và đánh giặc Pháp ở miền Nam.

Sau khi được sự đồng ý của Đức Cha Lê Hữu Từ, một phái đoàn của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc gồm có cha Hoàng Quỳnh và cha Lê Quang Oánh ở Thái Bình cùng với tôi và các anh Trần Ngân, Lưu Thế Lộ, Nguyễn Văn Xướng, Phạm Quốc Trị, Nguyễn Quốc Quỳnh xin vào yết kiến Hồ Chí Minh để trình bầy nguyện vọng của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc muốn thành lập một trung đoàn thanh niên công giáo xung phong vào đánh giặc Pháp ở Nam Bộ với số súng đạn mua được của quân đội Nhật Bản với tiền quyên được ở trong giới Công Giáo.

Ông Hồ tiếp phái đoàn một cách niềm nở và tỏ ý tán thành đề nghị của chúng tô. Bỗng nhiên, một ủy viên tùy phái tới trình rằng: "Ông Giáp mời ông Hồ sang phòng bên thưa chuyện" Chỉ một lúc sau không lâu, ông Hồ trở lại tiếp chuyện chúng tôi và ông ta bắt đầu nói lên một giọng điệu khác hẳn với lúc trước. Ông ta nói:

‘Tôi rất tán thành ý nguyện của anh em Công Giáo Cứu Quốc xung phong vào đánh giặc Pháp ở Nam Bộ, nhưng việc xin phép mua súng và quyên tiền sẽ được đưa ra bàn ở trong phiên họp của hội đồng chính phủ sắp tới’

Và ông Hồ nói là bộ trưởng bộ Quốc Phòng Võ Nguyên Giáp sẽ liên lạc với chúng tôi sau. Dĩ nhiên việc này bị cho chìm luôn!

Kế hoạch xin mua súng đạn một cách đại quy mô để đánh giặc Pháp ở Nam Bộ của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc không thành công là điều dễ hiểu vì chúng tôi biết Hồ Chí Minh đã âm mưu nói chuyện với đặc phái viên của thực dân Pháp là Jean Sainteny, để bán nước bằng việc ký Hiệp Định Sơ Bộ mồng 6 tháng 3, nhưng tôi cảm thấy ngạc nhiên khi Trần Huy Liệu, lúc này không còn là bộ trưởng tuyên bộ tuyên truyền nữa, đã liên lạc mời tôi tới gặp và đưa cho tôi một giấy phép của Tổng bộ Việt Minh cho phép Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc mua 50 khẩu súng các loại.

Đây có thể là đáp ứng của một lời yêu cầu trước đây xin mua súng nhân danh chức vụ Thanh Tra Công Giáo Vụ Toàn Quốc, để võ trang cho các đơn vị Tự Vệ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và cũng có thể Hồ Chí Minh không chấp nhận đề nghị của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc muốn mua một số lượng lớn súng đạn đủ võ trang cho một trung đoàn, nên hạ lệnh cho Tổng Bộ Việt Minh cấp giấy mua 50 khẩu súng này không có giới hạn thời gian tính và không có việc kiểm soát số lượng súng mua được, nên với giấy phép này chúng tôi đã mua được nhiều súng ống và chuyển vận một cách hợp pháp về Phát Diệm.

Công tác mua súng được ủy nhiện cho bà xã tôi: Tuyết Minh, ủy viên phụ trách tiếp tế của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc từ thời chiến khu Rịa, thực hiện cùng với hai phụ tá là anh Nguyễn Văn Thứ và anh Trần Văn Lai thường được gọi là Lai Cụt.

Sỡ dĩ anh Lai được gọi là Lai Cụt vì một tai nạn xẩy ra khi anh bắn thử một lô 12 khẩu súng hai nòng hiệu Browning mua được của một Pháp kiều ở Hà Nội, khi anh bắn thử tới khẩu thứ 11 thì một viên đạn đã nổ tung trong lòng súng, làm cho anh Lai bị cụt 4 ngón tay và phải nằm cả tháng trong nhà thương, và anh Trần Văn Lai đã bị thiệt mạng trong vụ Việt Minh tấn công vào giáo xứ Phúc Nhật ngày 9 tháng 10 năm 1947.

Việc mua súng không đến nỗi khó khăn lắm, vì mấy anh lính Tầu Phù cần bán súng để lấy tiền hút thuốc phiện, và mối mua súng của quân đội Nhật Bản cũng rất sẵn. Nhưng vấn đề chuyển vận súng là vấn đề khó khăn nhất, không phải vì Công An hay cảnh sát Việt Minh làm khó dễ, vì việc mua súng của VNCGCQ có giấy phép đàng hoàng, nhưng việc chuyển súng qua ga hàng Cỏ ở Hà Nội là khó khăn nhất vì quân cảnh của quân đội Trung Hoa kiểm soát khá chặt chẽ. Nhiều lần chúng tôi đã gặp khó khăn tại đây nhưng rất may là đều trôi chảy cả.

Những loại súng chúng tôi thường mua được là súng mitraillette Sten, do hãng garage Avia bán xe Citroen ỏ Hà Nội sản xuất, sau nữa là các loại súng Thompson hay súng lục bắn liên thanh Pạc hoọc, súng Carbin và các loại súng lục hay rouleau cũng dễ mua và dễ tháo rời ra để chuyên chở.

Mối mua súng mới và tối tân là đặt mua qua các Tầu Ô, đây là những tầu buôn loại khá lớn, chạy bằng buồm đến từ Bắc Hải hay Quảng Châu Loan ở bên Tầu, và những cuộc thương lượng mua súng và hàng hóa thường diễn ra ở cửa sông Càn và sông Mã ở Thanh Hóa gần đảo Núi Nẹ. Một lần nhạc phụ tôi là cụ Chánh Huyến, chánh trương xứ Hòa Lạc đích thân đi cùng với ông bạn là cụ Hào Bình ở Liên Quy, Tam Tổng thuộc tỉnh Thanh Hóa, đi thuyền ra biển giao tiếp với các chú nhân Tầu Ô gọi là làm quen sau nữa để xem các mặt hàng trong thuyền, phần nhiều là đồ xứ như bát đĩa, thuốc bắc và tơ lụa v.v… nhưng các cụ cũng ướm hỏi về việc đặt mua súng đạn cho Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc xứ Hòa Lạc. Vì ngôn ngữ bất đồng nên sự giao tiếp giữa hai bên thường diễn ra bằng bút đàm vì các cụ đều là những nhà nho thông thạo hán ngữ.

Vừa bược chân lên bờ, hai cụ đã được du kích ở làng Liên Quy đón tiếp với giao găm và lựu đạn nội hóa, đưa các cụ về trụ sở của ủy ban hành chánh kháng chiến xã, sau một hồi tra khảo các cụ bị buộc vào tội làm gián điệp, liên lạc với người ngoại quốc. Thế là hai cụ bị đưa lên giam ở trại Lý Bá Sơ ở lao Thành Tín và cũng có tên khác là Đầm Đùn nổi tiếng nghiệt nhất ở tỉnh Thanh Hóa.

Khi hay tin các cụ lâm nạn, chúng tôi liền vào Nhà Chung Phát Diệm xin Đức Cha Lê Hữu Từ là Cố vấn của chính phủ Hồ Chí Minh can thiệp. Sau khi kể hết tự sự và đặc biệt nhấn mạnh tới điểm nhạc phụ của chúng tôi là chánh trương xứ Hòa Lạc, nên Đức Cha nhận lời, ngài liền cho thảo một bức thư viết cho Đặng Thái Mai là chủ tịch ủy ban hành chánh kháng chiến tỉnh Thanh Hóa để xin tỉnh tha cho cả hai cụ, nhưng không có kết quả cấp tốc, nên Đức Cha Từ lại viết một thư khác xin Hồ Chí Minh đích thân can thiệp, và cuối cùng Đặng Thái Mai mới hạ lệnh thả tự do cho 2 cụ.

Một gương sáng thể hiện tình gia tộc thấm thiết của con dân đất Việt là ông anh thúc bá của vợ tôi đã đón ông Cụ từ trại Lý Bá Sơ ở phía Bắc tỉnh Thanh Hóa về Hòa Lạc, Phát Diệm, bằng xe đạp, ông chú đạp xe, ông cháu chạy theo, đun xe cho ông chú đỡ mệt, trên một khoảng đường dài sơ sơ có gần 100 cây số thôi.

Vì tình hình chính trị biến chuyển mạnh sau khi Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ và đặc biệt là các đảng phái quốc gia bắt đầu bị tan rã, lớp chạy theo quân đội Trung Hoa sang lánh nạn ở bên Tầu, lớp bị Việt Minh đàn áp và giam giữ, lớp rút lui về hoạt động bí mật, nhưng riêng đối với Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc thì thời gian này lại là thời cơ phát triển thuận lới nhất cho những hoạt động độc lập trong giới hạn của luật pháp quốc gia. Phát Diệm trở thành nơi nương tựa vững chắc cho các hoạt động chống cộng sản vô thần, nên các cơ sở của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được thiết lập lấy giáo xứ là đơn vị hạ tầng, phủ bộ, (nhiều giáo xứ gần nhau) là đơn vị trung tầng và tỗng bộ là cơ quan chỉ huy tối cao đặt tại Phát Diệm.

Cha Hoàng Quỳnh được Đức Cha Lê Hữu Từ trao cho việc tổ chức các lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các thầy giảng và các thanh niên của các giáo xứ. Trung tâm huấn luyện của Công Giáo Cứu Quốc được đặt tại Trường Thử ở Trì Chính, đây là một cơ sở rất rộng lớn có đủ chỗ huấn luyện cho 300 thanh niên mỗi khóa.

Vì nhiều địa phận có đông giáo dân như Bùi Chu, Thái Bình, Hà Nội và Nghệ An, và ngay những giáo xứ ở miền Bắc địa phận Phát Diệm, nằm trong vùng kiểm soát của Việt Minh, nên việc thành lập các đoàn Công Giáo Cứu Quốc khó có thể thực hiện được, chớ đừng nói tới việc võ trang cho các đơn vị tự vệ Công Giáo Cứu Quốc. Tuy nhiên nhiều thanh niên quả cảm ở các giáo xứ vẫn đổ về Phát Diệm tham dự các khóa huấn luyện chính trị và quân sự để trở về hoạt động bí mật ở các địa phương.

Để hướng dẫn và nâng đỡ các cơ sở hoạt động của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc ở các giáo xứ trên toàn quốc, trụ sở của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc ở số 9 phố Lamblot tức phố Lý Quốc Sư ở Hà Nội vẫn hoạt động đều đặn với anh Nguyễn Công Chính, chủ tịch của Ủy Ban Chấp Hành VNCGCQ là người có thể đi sát được với Tổng Bộ Việt Minh, nên phần nào nhiều giáo xứ hoạt động công giáo cứu quốc vẫn tiếp tục đều đặn được.