Chương 9 Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và -Mặt Trận Việt Minh sau Cách Mạng mùa Thu 1945
Sau khi thành lập chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh gặp nhiều sự đối kháng mãnh liệt của các đảng phái quốc gia, được sự yểm trợ của quân đội Trung Hoa tới Việt Nam, với nhiệm vụ tước khí giới quân đội Nhật Bản. Cụ Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ của phe quốc gia, đòi hỏi Hò Chí Minh phải thi hành thỏa hiệp ký kết ở Liễu Châu bên Trung Hoa ngày 28 tháng 3 năm 1944 về việc thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội và chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia. Ngày 23 tháng 10 năm 1945, Hồ Chí Minh phải nhượng bộ phe quốc gia và ký với Nguyễn Hải Thần một thỏa hiệp hợp tác giữa Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Minh.
Mặt khác quân đội Pháp núp bóng quân Anh, trở lại chiếm đóng Sài Gòn và việc làm cho Hồ Chí Minh đau lòng nhất là ngày 11 tháng 10 năm 1945, ngoại trưởng Bevin của chính phủ Anh Quốc tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, cho rằng cuộc cướp chính quyền của Việt Minh ngày 19 tháng 8 năm 1945, danh không chính ngôn không thuận, nên ngày 17 tháng 10 năm 1945, chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh quyết định tổ chức tổng tuyển cử vào ngày 23 tháng 12 năm 1945.
Trong chiều hướng quy tụ toàn dân, nhất là đối với các đảng phái trong nước trong công cuộc đấu tranh dành độc lập, Hồ Chí Minh đặc biệt quay về phía người Công Giáo. Trong việc tranh đấu cho nền độc lập của Tổ Quốc Việt Nam, các giám mục Việt Nam gửi đến Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12, một bức thư xin Ngài ban phép lành và cầu nguyện cho nền độc lập của Việt Nam, ngoài ra các giám mục Việt Nam cũng tuyên bố: ‘Các người Công Giáo không có quyền lãnh đạm với nền độc lập nước nhà, các ngài nhắc nhở cho giáo hữu biết bổn phận của họ là phải tranh đấu như thế, họ sẽ trung thành với Chúa Kitô và với tổ quốc.
Những lời tuyên bố này đã được đăng tải rộng rãi trên báo chí của Công Giáo Pháp đặc biệt là trên tờ Bulletin des Missions, với một bài xã luận đề tài Le Chrétien annamite et l’independence du Việt Nam (Người Công Giáo An Nam và nền độc lập của Việt Nam)
Riêng về phần hoạt động của giáo dân Việt Nam, ngoài cuộc mít tinh ở Phát Diệm với 50 ngàn dân tham dự nhân ngày lễ Tuyên Ngôn Độc Lập mồng 2 tháng 9 năm 1945, giáo dân và giáo sĩ ở Hà Nội cũng tổ chức một cuộc mít tinh khổng lồ ngày 23-9-1945 để phát huy lòng ái quốc, và ở thành phố Vinh 30 ngàn giáo dân cũng tổ chức một cuộc biểu tình ngày 8-10-1945 như ở Hà Nội.
Các hoạt động của hàng giáo phẩm cũng như của giáo dân trong công cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam, tỏ ra rất hăng say và có ảnh hưởng tới dư luận quốc tế, nên Hồ Chí Minh đã đặc biệt cử Phạm Văn Đồng, bộ trưởng bộ Tài Chánh trong chính phủ lâm thời về Phát Diệm gọi là để cùng với phái đoàn chính phủ tham dự lễ thụ phong Giám Mục của Đức Cha Lê Hữu Từ. Nhưng sự thực là Hồ Chí Minh cử Phạm Văn Đồng về Phát Diệm, ở lại tới 7 ngày, để tìm hiểu và quan sát các hoạt động của hàng giáo phẩm và giáo dân Công Giáo, và đặc biệt ở lại tham dự hội thống nhất Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm với Việt Nam Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc trong Mặt Trận Việt Minh.
Cũng nên nhắc lại là Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm được thành lập ngay từ năm 1942 bởi bộ ba: Cha Hoàng Quỳnh, Trần Ngân tức Bằng Phong và tôi, thời đó thường được gọi là Nguyễn Đình Minh. Cũng vào thời này, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh được thành lập tại Thái Nguyên, và trong danh sách các đảng phái và các đoàn thể cứu quốc của Việt Minh thời đó chỉ có Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc không mà thôi và không có Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Mọi liên lạc của chúng tôi với Việt Minh ở Thái Nguyên, đều qua Nguyễn Hữu Đang, thời đó là tổng thư ký hội Truyền Bá Quốc Ngữ.
Trong cuộc thảo luận về thành phần của ban Chấp Hành của tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được bầu lên trong Đại Hội ngày 30 tháng 10 năm 1945, một ngày sau ngày lễ thụ phong Giám Mục Phát Diệm của Đức Cha Lê Hữu Từ, Phạm Văn Đồng thường đề cập đến Nguyễn Văn Chính, chủ tịch của đoàn thể Việt Nam Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc, mà tôi đã có dịp gặp nhiều lần do sự giới thiệu của Trần Huy Liệu, và tôi biết rất rõ về Nguyễn Công Chính là một người công giáo tốt, một đoàn viên rất hăng say và cũng là phụ tá đắc lực của Nguyễn Mạnh Hà, thủ lãnh của đoàn Thanh Niên Lao Động Công Giáo, ở Hà Nội, và là một đảng viên đảng Cộng sản Đông Dương.
Được biết Nguyễn Mạnh Hà, con rể của tổng bí Thư đảng Cộng Sản Pháp Quốc, bộ trưởng Kinh tế trong chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh, đã giới thiệu phụ tá của mình là Nguyễn Công Chính vào đảng Cộng sản, và vì Chính là đảng viên đảng Cộng Sản nên được cử ra làm chủ tịch Việt Nam Công Giáo Khánh Nhật Cứu Quốc trong Mặt Trận Việt Minh, khác hẳn với Việt Minh. Nguyễn Công Chính đã bị tử thương trong một trận oanh tạc của máy bay Pháp tại Hà Đông, một tuần lễ sau khi khởi sự cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ngày 19-12-1946.
Về trường hợp bầu ban Chấp Hành Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc chính thức, Phạm Văn Đồng cùng Cha Hoàng Qùynh và chúng tôi đồng ý phân công các chức vụ như sau để tùy đại hội bỏ phiếu chấp thuận. Ban thường vụ gồm 4 người: 2 người thuộc Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc, cùng 8 ủy viên các vùng và 1 cố vấn. Riêng chức vụ chủ tịch cùng tổng thư ký để dành cho phe Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc và chức vụ phó chủ tịch cùng giám sát dành cho phe Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Chức vụ giám sát kiêm luôn chức vụ Thanh Tra Công Giáo Vụ toàn quốc. Lý do chính của việc phân công này là hợp thức hóa và thống nhật hai đoàn thể công giáo cứu quốc cùng đứng trong mặt trận Việt Minh.
Câu chuyện hợp thức hóa và thống nhất hai đoàn thể Công Giáo Cứu Quốc được cha Hoàng Quỳnh và tôi trình lên Đức Cha Lê Hữu Từ để xin Ngài thẩm định với lập luận rằng.
1- Phía mặt trần Việt Minh muốn lợi dụng việc thống nhất cùng hợp thức hai đoàn thể Công Giáo Cứu Quốc và sự ủng hộ của giới Công Giáo nói chung đối với Mặt Trận Việt Minh, để dùng làm hậu thuẫn trong việc thành lập chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia cùng với các đảng phái và nhất là để chứng tỏ cho thực dân Pháp, đang lăm le trở lại tái lập chế độ thuộc địa, thấy giáo dân Công Giáo Việt Nam nhiệt tình hợp tác cùng với chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh trong công cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam.
2- Phía Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc nhận định rằng trong công cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc, giáo dân Việt Nam nguyện sát cánh với Mặt Trận Việt Minh để chiến đấu chống lại mọi cuộc xâm lăng, vì Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được hợp thưc hóa trong mặt trận Việt Minh nên được quyền thành lập và võ trang cho các đội Tự Vệ Võ Trang Cứu Quốc tại các xứ đạo để đóng góp vào việc bảo vệ quê hương cũng như bảo vệ cho nhà thờ và xứ đạo.
Đức Cha Lê Hữu Từ đã đồng ý về đường lối chính trị của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc sẽ theo đuổi trong thời gian sắp tới do cha Quỳnh và chúng tôi đề nghị, và ngài nhận sẽ trình bầy rõ cho các Đức Giám Mục khác cùng các cha chính địa phận biết rõ. Cuộc vận động với các đại diện của các địa phận và giáo xứ tham dự cuộc đại hội đã diễn ra một cách tích cực để cuộc bầu phiếu ngày hôm sau có thể đem lại được những kết quả dự liệu.
Sáng ngày 30 tháng 10 năm 1945, buổi Đại Hội lịch sử của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã diễn ra một cách hết sức long trọng và hứng khởi với bài diển văn khai mạc của Đức Cha Lê Hữu Từ, linh hồn của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và của Phạm Văn Đồng, bộ trưởng bộ Tài Chánh đại diện chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh cùng Tổng Bộ Việt Minh. Đồng ký nhận hợp thức hóa tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và sau đó là cuộc bầu cử ban Chấp hành chính thức của tổ chức và kết quả như sau:
Chủ tịch: Nguyễn Công Chính
Phó chủ tịch: L.M. Hoàng Quỳnh
Tổng thư ký: Nguyễn Văn Hiển
Ủy viên giám sát: Nguyễn Đình Minh
Các ủy viên:
Bắc bộ: Nguyễn Văn Xướng (Ninh Bình)
Bắc trung bộ: Lê Hữu Hiến (em Đ.C. Lê Hữu Từ)
Nam trung bộ: Nguyễn Văn Kiều (Nha Trang)
Nam bộ: Nguyễn Hữu Lượng (Sài Gòn)
Tỉnh Nam Định: Lưu Thế Lộ (Hải Hậu)
Tỉnh Ninh Bình: Phạm Quốc Trị (tỉnh lỵ)
Tỉnh Hà Nam: Nguyễn Quốc Quỳnh (Phủ Lý)
Cố Vấn: L.M. Lê Quang Oánh (Thái Bình)
Trong suốt thời gian 7 ngày ở tại nhà chúng tôi, Phạm Văn Đồng đã hỏi tôi rất nhiều về Đức Cha Lê Hữu Từ từ việc tu hành cho tới thành tích cách mạng của ngài, và dĩ nhiên tôi nói cho Đồng biết tất cả những gì tôi biết về ngài, và Đồng tỏ ra rất khâm phục về đời sống của một khỏ tu dòng Châu Sơn phải sống như người nghèo nhất trong xã hội Việt Nam, nguyên nói tới việc đi chân không tứ mùa bát tiết trong suốt mấy chục năm trời, thêm vào đó lại còn phải ăn chay, hãm mình quanh năm ngày tháng.
Riêng về thành tích cách mạng của Đức Cha Lê Hữu Từ, tôi cũng cho Phạm Văn Đồng biết rõ những hoạt động của ngài giúp Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc bành trướng rộng rãi, trên đường đạp xe từ Bắc vào tới Huế, xe đạp của ngài mang đầy truyền đơn bươm bướm, và ngài phân phát khắp nơi, kêu gọi toàn dân đứng lên chống Pháp, kháng Nhật, dành lại độc lập cho Tổ Quốc.
Sau khi Phạm Văn Đồng về Hà Nội để kịp dự cuộc đại hội của đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày mồng 3 tới ngày 10 tháng 11 và đến ngày 11 tháng 11 năm 1945, đảng Cộng Sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, tôi tới gặp và yêu cầu Đồng thu xếp để một phái đoàn của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm tới gặp cụ Hồ để tỏ bầy lòng biết ơn của giáo dân Phát Diệm về việc cụ Hồ gửi phái đoàn về tham dự lễ thụ phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ. Lời yêu cầu này được chấp nhận ngay và chỉ 2 ngày sau một phái đoàn gồm có cha Hoàng Quỳnh, các anh Trần Ngân, Nguyễn Văn Xướng, Lưu Thế Lộ, và tôi tới Bắc Bộ Phủ và được Hồ Chí Minh tiếp đón một cách hết sức nồng hậu.
Sau khi cha Hoàng Quỳnh, đại diện cho Đức Cha Lê Hữu Từ tỏ lời cám ơn Hồ Chí Minh và chính phủ lâm thời về việc phái đoán chính thức của chính phủ được cử về Phát Diệm tham dự lễ thụ phong giám mục. Cha Quỳnh cũng tỏ bầy thêm lời của toàn dân nói chung và giáo dân Công Giáo nói riêng, mong mỏi sớm được thấy một chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia được thành lập để toàn dân tin tưởng và hăng hái tham gia công cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc.
Hồ Chí Minh đã trả lới một cách mềm dẻo và hưởng ứng lời đề nghị của cha Quỳnh về việc thành lập chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia và cho biết cuộc điều đình với các đảng phái đang diễn ra một cách tốt đẹp, và đoán chắc là chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia sắp được trình diện với quốc dân với quốc dân trong một ngày rất gần đây. Chúng tôi cũng báo cáo về việc thống nhất hai đoàn thể công giáo cứu quốc và yêu cầu việc họp thức hóa Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được chính thức công bố và phái đoàn cũng lưu ý chính phủ về việc công nhận quyền tư hữu tài sản của nhân dân và nhất là vấn đề tự do tín ngưỡng.
Cuộc tiếp xúc với Hồ Chí Minh của phái đoàn Công Giáo Cứu Quốc của Phát Diệm đã diễn ra một cách thân mật và cởi mở, và đã được chấm dứt bằng một bức hình chụp chung. Sau cuộc họp, phái đoàn cũng tiếp xúc với Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu, riêng cuộc tiếp xúc với Cựu Hoàng Bảo Đại không thực hiện được. Được biết cả Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu cùng với Cựu Hoàng Bảo Đại đều có về tham dự lễ thụ phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ.
Riêng đối với Phạm Văn Đồng, phái đoàn mời Đồng đi ăn kem Zephyr ở bờ Hồ Hoàn Kiếm vì biết Đồng sắp làm rể bà chủ nhà hàng kem này.
Báo Cứu Quốc cơ quan chính thức của chính phủ và tổng bộ Việt Minh trong số ra ngày 10-11-1945 có đăng tải danh sách của ban Chấp Hành Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và liệt kê Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đứng hàng số 12 trong số các đảng và đoàn thể của Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh, báo Cứu Quốc cũng ca tụng tinh thần ái quốc của người Công Giáo Việt Nam.
Chủ đích của các cuộc tiếp xúc với các nhân vật chính trong chính quyền đều nhằm vào việc hợp thức hóa Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc để chính thức được quyền võ trang các đoàn thể Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc tại các giáo xứ công giáo không phải chỉ riêng cho địa phận Phát Diệm mà thôi mà lại còn bao gồm các địa phận khác nữa. Để gọi là đóng góp vào công cuộc tranh đấu võ trang dành độc lập, đồng thời lại có súng ống để bảo vệ cho nhà thờ và giáo dân trong lúc thời thế lộn xộn đầy đe dọa này.
Mặc dầu báo Cứu Quốc ca tụng lòng ái quốc của người công giáo, và phái đoàn Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được Hồ Chí Minh tiếp đón nồng hậu tại Bắc Bộ Phủ kể cả việc tiếp xúc với bộ trưởng bộ nội vụ lẫn bộ trưởng bộ thông tin tuyên truyền, nhưng chỉ vài tháng sau, một số những nhân vật trong phái đoàn hay của ban chấp hành của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã bị đàn áp một cách trắng trợn và đẫm máu của công an hay chính quyền Việt Minh. Điển hình là vụ Tổng Thư Ký Ban Chấp Hành Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được bầu lên tại đại hội ở Phát Diệm hồi tháng 10 năm 1945 thì chỉ tới tháng 6 năm 1946, nghĩa là chỉ 8 tháng sau, Nguyễn Văn Hiển đã bị Công an Việt Minh bắt cóc và có tin nói Hiển bị thủ tiêu.
Cũng trong thời gian tháng 6 này, Nguyễn Văn Xướng, ủy ban Chấp Hành của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc bị công an tỉnh Ninh Bình bắt giữ trong gần 4 tháng, chỉ vì tội con điền chủ và tôi: Nguyễn Đình Minh tức Thư, Ủy Viên Giám sát kiêm Thanh tra toàn quốc Công Giáo Cứu Quốc cũng bị giam giữ trong xà lim của ty Công An Việt Minh tỉnh Ninh Bình vào cuối tháng 11 năm 1946 mãi tới ngày 20-12-46 mới được thả tự do, nhờ ở lá thư phút chót của Trần Huy Liệu viết cho trưởng ty Công an tỉnh Ninh Bình Đào Gia Lựu, trước khi Liệu ra bưng kháng chiến, và vợ tôi đã cầm lá thư của Trần Huy Liệu rời nhà ga Hà Nội bằng chuyến xe lửa cuối cùng trước khi quân đội thực dân Pháp và Tự vệ thành Hà Nội nổ súng khai mào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Mặc dầu tôi đã tiếp xúc nhiều lần với Hồ Chí Minh và rất thân với Phạm Văn Đồng, nhưng tôi vẫn bị một thằng công an cắc ké đến tận nhà xích tay giam giữ vào xà lim mà không hề cho biết là bị giam về tội gì!
Sáng được đến ngày nay tại đất Hoa Kỳ, ngồi viết những dòng chữ này, làm sao tôi quên được cảnh bạn già của tôi là Nguyễn Hữu Đang người đã giúp tôi liên lạc với Mặt Trận Việt Minh, nhớ lúc tôi cùng Đang và Trần Ngân tiến vào Bắc Bộ Phủ trong giai đoạn đầu của Cách Mạng mùa thu và nay được tin Nguyễn Hữu Đang bị Việt Minh giam tù 17 năm và bị đầy dọa ở quê nhà ở huyện Quỳnh Côi tỉnh Thái Bình chuyên ăn thịt cóc băm làm chất bồi dưỡng để sống qua ngày.
Bị Việt Cộng giam cầm 17 ngày so với 17 năm Nguyễn Hữu Đang bị Việt Cộng giam giữ, làm sao tôi dám so nổi để nói lên lòng căm thù đối với bọn ác ôn côn đồ Cộng Sản Việt Nam đang đầy đọa dân tộc Việt Nam trong đau khổ lầm than.