← Quay lại trang sách

Chương 12 Chiến tranh tuyên truyền giữa -Công Giáo Cứu Quốc và Việt Minh

Sau khi cuộc hội nghị giữa Pháp và Việt Nam tan vỡ ở Fontainebleau, Hồ Chí Minh đã lẻn tới nhà riêng của tổng trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Marius Moutet, ở Paris thủ đô Pháp Quốc, đêm ngày 14 tháng 9 năm 1946 để xin ký một thỏa ước tạm thời Modus Vivendi, thỏa ước này cũng không hơn gì bản hiệp định sơ bộ, theo đó Việt chỉ được công nhận là một quốc gia tự do trong Liên Bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp, và ngày 19 tháng 9 năm 1946 Hồ Chí Minh trở về Việt Nam trên chiến hạm Dumont d’Urville của hải quân Pháp, và ngày 24 tháng 10 năm 1946, Hồ Chí Minh tiếp Đức Cha Lê Hữu Từ và phái đoàn gồm cha Đoàn Độc Thư và tác giả tại Bắc Bộ Phủ ở Hà Nội.

Ngay khi giáp mặt Hồ Chí Minh, Đức Cha Từ tấn công ngay, bằng những lời lẽ hết sức bộc trực, nhưng đầy lòng yêu nước, thương nòi:

‘Thưa Cụ, nỗi uất hận của tôi về hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 chưa nguôi, thì nay cụ lại ký thêm thỏa ước Modus Vivendi, mà nội dung của nó cũng không hơn gì hiệp định sơ bộ, tôi cho đây là một hành bán nước nữa, nên tôi ước gì tầu Dumont d’Urville đắm ở dọc đường, để Cụ đứng về đến đất nước này nữa, hơn nữa tôi nhận thấy nhân dân trong nước cũng uất hận rất nhiều, họ chỉ muốn kéo ùa ra biển nhận chìm chiếc tầu chở Cụ và phái đoàn về nước, nếu chính phủ còn tái lầm lỗi, chính tôi sẽ huy động dân chúng đứng lên phản đối…

Hồ Chí Minh nhắc lại hai lần viếng thăm trước của Đức Cha Lê Hữu Từ, sau khi ông ấy ký hiệp định sơ bộ và nói:

‘Thưa Cụ, như tôi đã nói với Cụ lần trước rằng cái thế của mình phải quỳ mà đi tới độc lập, nay cái thế ấy bắt buộc ta phải bò mà đi tới độc lập. Xin Cụ cứ tin ở tôi một lần nữa. ‘

Đức Cha Từ trả lới:

‘Tôi có thể tin Cụ một lần nữa, nhưng việc các đoàn thể và đảng phái quốc gia đang bị chính phủ tiêu diệt thì Cụ nghĩ sao?’

Hồ Chí Minh nói:

‘Tôi vừa mới ở Pháp về nên chưa được rõ các việc ấy, xin Cụ an tâm, tôi sẽ thu xếp.’

Tuy Hồ Chí Minh nói với Đức Cha Lê rằng sẽ thu xếp, nhưng chỉ 4 ngày sau khi tiếp phái đoàn Phát Diệm, Việt Minh bắt đầu việc loại trừ các phần tử quốc gia trong chính phủ bằng một cuộc cải tổ Quốc Hội và Chính Phủ. Ngày 28 tháng 10 năm 1946, Quốc Hội Việt Minh họp tại nhà Hát Lớn Hà Nội khoảng 50 nghị sĩ thuộc phe đối lập tức thuộc các đảng phái quốc gia vắng mặt không tới họp.

Các ông bộ trưởng thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Hội như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Trương Đình Tri cũng tự ý thoát lui, nên Hồ Chí Minh đã cải tổ chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia ngày 13 tháng 11 năm 1946, gồm một số bộ trưởng gốc cộng sản như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Tạo, Hoàng Minh Giám v.v… và một số bộ trưởng khác có khuynh hướng độc lập và chuyên viên. Tuy nhiên những lãnh tụ Cộng sản cốt cán như Hoàng Quốc Việt tức Hà Bá Cang, Nguyễn Lương Bằng, Trưởng Chinh tức Đặng Xuân Khu, Trần Huy Liệu vẫn còn nắm những vai trò then chốt trong hậu trường chính trị.

Trong thời gian này, Việt Minh đã tăng cường chính sách khủng bố, thi hành dưới bàn tay đồ tể của vô vàn cán bộ xu thời, mù quáng và độc ác. Những hành động quá khích, kết quả thì ít, tai hại thì nhiều. Phương châm Đoàn Kết, Đại Đoàn Kết của Hồ Chí Minh tự nó đã biến thành một kế hoạch loại trừ và phản đoàn kết đại quy mô là tiêu diệt các đảng phái cùng những người có tinh thần quốc gia, ngoài ra, những ban trinh sát, ám sát của Việt Minh mọc lên như nấm, thi hành những chỉ thị bí mật, đẫm máu, gây hoảng hốt trong tâm can người dân lành chất phác.

Nguyên tại địa phận Phát Diệm từ cuối năm 1946 đến đầu năm 1947 ước lượng đã có tới khoảng 5.000 người vừa công giáo và không công giáo đã bị chính quyền Cộng sản bắt giữ, trong số này có những người bị bắt vì có liên quan tới các đảng phái quốc gia, còn hầu hết đều là những người có giữ trách vụ trong các giáo xứ như trùm trưởng, nhân viên hội đồng giáo xứ, cán bộ lãnh đạo các tổ chức công giáo tiến hành và công giáo cứu quốc, hoặc liên đoàn công giáo, và chính tác giả: Nguyễn Đình Minh tức Nguyễn Đình Thư, Thanh Tra Công Giáo Vụ toàn quốc, đại diện ban chấp hành trung ương của Công Giáo Cứu Quốc trong Mặt trận Việt Minh, cũng bị an ninh quân đội Việt Cộng bắt giữ đem gửi ty Công An tỉnh Ninh Bình rốt trong sà lim hơn 3 tuần lễ, sau chính Trần Huy Liệu, một tay tổ trong tổng bộ Việt Minh can thiệp mới được thả tự do, mà không hề được cho biết bị bắt vì lý do gì!

Trước hành động Việt Minh đàn áp, bắt bớ nhân dân, nhất là đối với người công giáo, Đức Cha Lê Hữu Từ liền gửi thư cho Hồ Chí Minh, để phản kháng một cách hết sức mạnh mẽ và đòi chính quyền phải trả tự do cho những người bị bắt và bị giam cầm, mà không có lý do chính đáng hoặc không được đưa ra tòa án xét xử.

Trong thư phản kháng Đức Cha Lê vạch ra rằng:

‘Những hành động khủng bố, bắt giữ người dân lương thiện chỉ vì một lý do rất nhỏ mọn của cơ quan chính quyền đã làm cho dân chúng xao xuyến, hại đến tình đoàn kết dân tộc trong giai đoạn nghiêm trọng này. Những hành động ấy được coi như là đàn áp và gây chia rẽ tôn giáo, khiêu khích người công giáo…’

Biết rõ tính cương trực của Đức Cha Lê: nói là làm, Hồ Chí Minh vội vã và gửi ngay một phái đoàn đại diện chính phủ do Bộ trưởng bộ Lao Động Ngyễn Văn Tạo cầm đầu, tới Phát Diệm ngày mồng 3 tháng 2 năm 1947, rồi hầu như chưa yên tâm, Hồ Chí Minh lại gửi thêm bí thư riêng của mình là Vũ Đình Huỳnh và Đỗ Bá, nhân viên bộ Quốc Phòng về tới Phát Diệm ngày mồng 5 tháng 2 năm 1947, để chuyển lời xin lỗi của chính phủ tới Đức Cha Cố Vấn Lê Hữu Từ, đồng thời còn đem theo lệnh thả tự do ngay cho một số người bị bắt mà Đức Cha Lê đã can thiệp nhất là những giáo dân liên hệ tới vụ xung đột đẫm máu giữa Công An Việt Minh và Thanh Niên Công Giáo Cứu Quốc giáo xứ Văn Hải.

Tuy 2 phái đoàn đã tới Phát Diệm chỉ cách nhau có 2 ngày, nhưng Hồ Chí Minh vẫn chưa yên tâm, nên cử thêm linh mục Nguyễn Bá Trực, nhân viên thường trực Quốc Hội, cầm thư riêng của họ Hồ về Phát Diệm ngày mồng 7 tháng 2 năm 1947 nghĩ rằng một linh mục như cha Trực có thể dễ thông cảm hơn khi nói chuyện với một giám mục như Đức Cha Lê Hữu Từ.

Khi được tin báo Nguyễn Văn Tạo, bộ trưởng bộ Lao động chính phủ Hồ Chí Minh, cầm đầu một phái đoàn chính phủ về Phát Diệm, sau khi Hồ Chí Minh nhận được văn thư phản kháng của Đức Cha Lê về việc Việt Minh khủng bố và đàn áp nhân dân, tôi được Đức Cha Lê gọi vào tòa giám mục để trình bày cho ngài biết về Nguyễn Văn Tạo.

Trong gần một giờ đồng hồ thảo luận tôi có đề nghị một số kế hoạch từ việc tổ chức tiếp đón để phô trương lực lượng của tổ chức tự vệ Công Giáo Cứu Quốc hòng áp đảo tinh thần của phái đoàn chính phủ đến việc Đức Cha Lê tiếp kiến riêng Nguyễn Văn Tạo, không có phái đoàn tùy tùng, để nói lên tinh thần đoàn kết của toàn dân trong công cuộc chống Pháp dành Độc Lập.

Và đặc biệt về chủ trương đại đoàn kết giữa người công giáo và không công giáo của Phát Diệm để cảnh tỉnh bọn người có dã tâm đi tuyên truyền gây chia rẽ và để ngăn chặn những vụ ‘hạ cấp làm liều’ và ‘giáo hóa chưa phổ cập’ của các cấp trong chính quyền. Ngoài ra đây cũng là dịp để trả lời lá thư của Hồ Chí Minh viết cho Đức Cha Lê ngày 23 tháng 1 năm 1947, về lời phê bình của chủ tịch Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến khu III rằng Phát Diệm thiếu tinh thần kháng chiến.

Sau khi gặp 3 phái đoàn của chính phủ Hồ Chí Minh trong vòng 5 ngày, Đức Cha Lê có cho tôi biết là kết quả của những cuộc gặp gỡ tỏ ra rất tốt đẹp, không do những lời lẽ bóng bẩy đầy tính cách chính trị mà do ở những lời nói chân tình của một thầy dòng khổ tu thực lòng yêu Tổ Quốc, đã chinh phục được hoàn toàn tất cả các thành viên 3 phái đoàn, và trong một thông tư đề ngày 15 tháng 2 năm 1947, gửi cho các linh mục và giáo dân toàn địa phận Phát Diệm, Đức Cha Lê có gửi kèm theo phóng ảnh của 2 bức thư của Hồ Chí Minh gửi cho Đức Cha và ngài nhắc lại 3 điều:

1) Chúng ta, hơn ai hết, phải có tinh thần ái quốc, cao thượng mà tham gia việc kháng chiến. Lúc giặc chưa đến, phải hết sức chuẩn bị trong bình tĩnh, kỷ luật, tăng gia sản xuất để tiếp tế cho tiền tuyến, khi giặc đến gần phải sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh chính phủ để tác chiến.

2) Chính trị của chính phủ đối với tôn giáo, riêng với Công Giáo rất rõ ràng. Nên ta phải dè dặt đối với các tin phao đồn. Nếu đâu có những hành động trái ngược với thượng lệnh của chính phủ, xin cho tôi biết ngay để tôi can thiệp, chớ vội vàng để xẩy ra những việc đáng tiếc.

3) Đối với anh em bên lương, ngày nay ta càng tỏ tình đoàn kết để ngoại địch thấy rõ, trước nguy vong của Tổ Quốc, toàn thể đồng bào chỉ là một khối.

Để sửa soạn cho công cuộc kháng chiến chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc, đồng thời để chứng tỏ Phát Diệm có tinh thần kháng chiến cao độ, ngoài việc ra thông tư vừa trình bày trên đây để nói rõ lập trường dứt khoát của giáo phận Phát Diệm đối với vấn đề kháng chiến chống Pháp, Đức Cha Lê lại ra chỉ thị các giáo xứ mở rộng những lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho Thanh Niên Công Giáo Cứu Quốc (TNCGCQ), tổ chức những cuộc họp bạn liên giáo xứ TNCGCQ, và lễ tuyên thệ cho cán bộ Công Giáo Cứu Quốc và nhất là xúc tiến mạnh hơn nữa việc mua võ khí để võ trang cho các tổ chức Tự Vệ CGCQ.

Vì số dân tản cư về vùng Phát Diệm một ngày một đông và họ hết sức nóng lòng theo dõi tin tức chiến sự ở các tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định v.v… để xem có hy vọng nào hồi hương hay không? Nên phủ bộ Việt Minh phủ Kim Sơn liền mở một phòng thông tin ngay ở nhà Cô Am ở giữa phố Thượng Kiệm, và mỗi thứ bảy vào buổi chiều phủ bộ Việt Minh lại mở một buổi tuyên truyền từ lầu gác hiệu Đông Thịnh gần cầu Phú Vinh giáp Phát Diệm.

Trong những buổi tuyên truyền chiều thứ bẩy Việt Minh thường đưa ra những luận điệu vu khống và xuyên tạc các hoạt động của Đức Cha Lê Hữu Từ và của người Công Giáo Phát Diệm, nên ngày 20 tháng 2 năm 1947, Đức Cha Lê ủy nhiệm cha Hoàng Quỳnh và cha Đoàn Độc Thư cùng một số thanh niên Phát Diệm đứng ra tổ chức phòng Thông tin Tuyên Truyền Công Giáo, trụ sở đặt tại nhà Cụ Trùm Nhật ở ngay giữa phố Phát Diệm.

Phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo được coi như chính thức hợp thức hóa mồng 8 tháng 3 năm 1947 bằng một lễ khánh thành thật long trọng dưới sự chủ tọa của Đức Cha Cố Vấn chính phủ với sự có mặt của đại diện cơ quan chính quyền, và đại biểu của các đoàn thể công cũng như tư cả đạo lẫn đời. Mấy ngàn dân chúng đứng chật khắp đường phố và trên thuyền đậu ở sông Phát Diệm, phòng thông tin được mở cửa hàng ngày cho dân chúng vào xem bịch báo, tranh ảnh và những bản tin chiến sự nhận qua radio mỗi ngày.

Mỗi chiều chủ nhật từ 5 giờ đến 7 giờ có chương trình phát thanh và tuyên truyền của phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo, đặc biệt câu chuyện hàng tuần của cha Đoàn Độc Thư tỏ ra hết sức hấp dẫn đối với quần chúng, trước hết nhờ tài hùng biện nổi tiếng của ngài, sau nữa những câu chuyện thật rí rỏm vạch trần những mưu mô tuyên truyền ngày hôm trước trên lầu gác hiệu Đông Thịnh cách xa phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo khoảng độ 300 thước.

Để hiểu về cuộc ‘chiến tranh’ tuyên truyền giữa Việt Minh và Công Giáo Cứu Quốc, xin trích ra sau đây những lời Đức Cha Lê đã viết về phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo trong quyển hồi ký của ngài.

Nhờ danh nghĩa cứu quốc, mà Phát Diệm đã lập được các ngành như chính phủ Việt Nam; mọi nhân viên cũng hầu hết là người công giáo đưa ra, đừng kể Tự Vệ là ngành đã hoạt động đắc lực nhất, thì ngành tuyên truyền cũng rất ảnh hưởng, lúc ấy cha Đoàn Độc Thư đứng đầu ban tuyên truyền, ngài đã khéo tổ chức để liên lạc với các xứ các xã để có lập trường và hành động thống nhất. Riêng tại Kim Sơn, Phát Diệm, có phòng thông tin, phát thanh các ngày chủ nhật ban chiều, Hễ có việc gì hoặc Việt Minh tuyên tryền gì có hại ích chung, lập tức có tiếng của công giáo phản tuyên truyền lại phá tan hết mọi mưu mô của Việt Minh. Dân chúng cả giáo cả lương nhờ đó mà biết rõ sự thật, nên họ hưởng ứng với một lòng tín nhiệm khó tả hết; phòng thông tin Công Giáo vừa bắt đầu nói thì dân chúng đến đến kín mít chật đường phố, không còn lối đi: vì các xứ xa gần đều cố gắng tới nghe tin tức chắc thật để về truyền lại. Trong giờ truyền thanh những tiếng vỗ tay, những lời hoan hô vang động cả một góc trời…

Các buổi phát thanh Công Giáo thường là để vạch lối rõ cho dân khỏi lầm, hoặc cải chính lại những điều Việt Minh tuyên truyền sai bậy về Công Giáo, hoặc vẽ cách cho dân biết lối chất vấn cán bộ Việt Minh hay là thưa lại cho chắc lý…’

Trong sách Giám Mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm xuất bản tại Sài Gòn năm 1973, linh mục Đoàn Độc Thư, Giám đốc phòng Thông Tin và Tuyên Truyền Công Giáo đã viết như sau:

‘Cái cảnh chen chúc nhau, giành giựt chỗ đứng đã nói lên sự tín nhiệm và tâm trạng người dân lúc nào cũng muốn tìm về sự thật bất chấp mọi cản trở, đe dọa của những người nắm quyền thế. Đặc biệt hơn nữa, dân chúng từ những nơi xa Phát Diệm như Nam Định, Bùi Chu, thị xã Ninh Bình, Thanh Hóa… đã cơm đùm, cơm nắm đổ xô về Phát Diệm ngay từ chiều thứ bẩy để thăm trụ sở, lấy tin tức và mua báo Tiếng Kêu. Điều này làm cho chính quyền Cộng Sản bực tức không ít, nhất là sau mỗi buổi phát thanh, ngàn người như một, đồng loạt hô những khẫu hiệu: ‘Việt Nam Độc Lập Muôn Năm’, ‘Tự Do Tín Ngưỡng’, ‘Đả Đảo Cộng Sản’.

Mặc dầu chính quyền Cộng Sản cố tìm cách phá nhưng không phá nổi vì phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo này là của Công Giáo Cứu Quốc, một tổ chức ở trong Mặt Trận Việt Minh đã được hợp phép hóa ngày 29 tháng 10 năm 1945.

Trong cuộc ‘chiến tranh’ tuyên truyền, Đức Cha Lê Hữu Từ ủy nhiệm vụ cho cha Đoàn Độc Thư phát hành tờ tuần báo ‘Tiếng Kêu’ để phổ biến sâu rộng đường lối vừa Kháng Chiến vừa Chống Cộng của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, và tờ ‘Tiếng Kêu’ được Đức Cha Lê hữu Từ xác nhận là tiếng nói chính thức của ngài giúp vào việc củng cố nền Độc Lập Tổ Quốc và thêm vinh quang cho Giáo Hội Việt Nam.

Cha Đoàn Độc Thư với danh nghĩa Công Giáo Cứu Quốc, thừa ủy nhiệm của Đức Cha Cố Vấn Chính phủ, xin phép chính quyền xuất bản tuần báo ‘Tiếng Kêu’, bất đắc dĩ Việt Minh phải cấp giấy phép, nhưng với điều kiện tờ tuần báo Tiếng Kêu phải được kiểm duyệt trước khi phát hành, theo như luật lệ hiện hành. Việt Minh đã tìm đủ cách để phá tờ Tiếng Kêu bằng việc kiểm duyệt, nhưng ‘vỏ quýt dầy có móng tay nhọn’, cha Thư đã qua mặt việc kiểm duyệt rồi mới được phát hành bằng cách in ở cuối trang 4 như sau: ‘Đã Gửi Kiểm Duyệt’ thay vì chữ ‘Đã Kiểm Duyệt’, cuộc giằng co về vấn đề kiểm duyệt kéo dài một thời gian sau đó Đức Cha Lê đòi chính quyền trao quyền kiểm duyệt cho văn phòng Cố Vấn

Việt Minh đòi thu hồi giấy phép cho xuất bản tờ Tiếng Kêu cùng tịch thu nhiều ngàn tờ báo nhưng khi Tiếng Kêu càng khan hiếm thì dân chúng lại cố tìm bằng được để đọc và truyền tay cho nhau và việc rỉ tai tuyên truyền lại tỏ ra tai hại hơn nữa đối với Việt Minh.

Ảnh hưởng của cuộc ‘chiến tranh’ tuyên truyền nói lên lập trường chính trị của Đức Cha Lê Hữu Từ là vừa Kháng Chiến vừa Chống Cộng theo tôn chỉ Phụng Sự Thiên Chúa và Tổ Quốc làm cho Hồ Chí Minh phải gửi thư cho Đức Cha Lê đề ngày mồng 2 tháng 3 năm 1947, trong đó Hồ Chí Minh có nói là chính sách và mục đích của chính phủ chỉ có 3 điều:

(1) Làm cho dân khỏi đói, khỏi rét, khỏi dốt.

(2) Làm cho đồng bào tự do, tự do tín ngưỡng, tự do làm ăn.

(3) Làm cho tổ quốc độc lập.

Sau gần nửa thế kỷ cầm chính quyền, Việt Minh đã thực hiện được những gì?

Đối với điều 1: Việt Nam hiện nay được liệt kê là một trong 5 nước nghèo nhất thế giới.

Đối với điều 2: Từ khi Việt Minh cướp chính quyền cho đến năm 1985, nhân dân Việt Nam đâu có tự do nhân quyền, và tự do tôn giáo

Đối với điều 3: Chúng ta có thể đồng ý là Việt Nam đã được độc lập, nhưng một nền độc lập nhân dân Việt Nam phải trả một giá quá đắt, với 2 trận chiến tranh làm cho hàng triệu con dân đất Việt bị thiệt mạng và đất nước bị tan tành, nhân dân lầm than đói khổ cho tới bây giờ chưa thoát ra khỏi.

Trong khi đó các quốc gia khác ở Á Châu, như Nam Dương, Mã Lai, Nam Hàn, Ấn Độ v.v.. trước đây là thuộc địa của đế quốc như Việt Nam mà nay những nước này đều dành được độc lập mà nhân dân của họ không hề phải đổ một giọt máu nào, mất một nhân mạng nào, hơn nữa lại có những nước trở nên giàu mạnh được gọi là những Con Rồng Vàng kinh tế trên thế giới, mà Việt Nam lại được coi là một trong những nước nghèo khổ nhất thế giới.

Như vậy Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đáng bị nguyền rủa vì đã hoàn toàn thất bại không mang lại cho được Tự Do và Hạnh Phúc cho nhân dân Việt Nam trong gần nửa thế kỷ cầm quyền binh trong tay, và bắt nhân dân Việt Nam phải trả một giá quá đắt cho một nền độc lập khập khễnh, hết làm đầy tớ cho Liên Sô, rồi làm đầy tớ cho Tầu bây giờ lại đang lăm le trở thành đầy tớ của tư bản Hoa Kỳ nữa!