Chương V
Cô ta tên là Thu-Liễu, con gái họ Lâm, quê ở phía nam mạn Phù-châu. Cha mẹ nhà nghèo, chỉ có một mụn con gái làm của báu. Năm cô ta lên chín, hai ông bà bỗng cùng nhau tị-trần. Trong họ có bà dì, nhà giàu có, đem Thu-Liễu về nuôi, đến năm mười tám thì gả cho một người Huyện-quan họ Mã. Mã-Sinh là người ở mãi trên Hán-khẩu. Từ khi được ngồi huyện này kể đã năm năm mà chưa lần nào về thăm quê quán. Thu-Liễu thường thấy băn-khoăn lo lắng, có hỏi thì chỉ nói là bận lòng vì việc quan. Giục về thăm quê thì lại tìm cớ thoái-thác. Mã-Sinh làm quan rất là chăm-chỉ và liêm-chính ; tính lại nhũn-nhặn và hay thương người nghèo. Cả huyện ai cũng yêu-mến mà ai cũng kính sợ. Trong gia-đình tuy thanh-bạch song thực là êm ái lắm. Mã-Sinh như thế có thể gọi là người sung-sướng ít ai bì. Nhưng cái mối lo âu u-ẩn trong lòng làm cho lúc nào vẻ mặt chàng cũng buồn rầu kia, Thu-Liễu hết cách để dò xét cũng không thể nào biết được.
Một hôm, Mã-Sinh bỗng như cuồng như dại, cả ngày cứ bức-rức ở trong nhà. Đến tối sai tôi tớ mỗi người đi một việc, gọi Thu-Liễu vào phòng, gục đầu xuống vai nàng rưng-rức lên khóc. Thu-Liễu hết lời căn-vặn hỏi, chàng mới đem câu chuyện sau đây kể cho vợ nghe.
Ông thân-sinh ra cha Mã-Sinh là Mã-Hồng, trước kia làm quan rất có thế lực. Khi hồi hưu, đối với dân-gian thường hay thị-oai làm nhiều điều càn. Tính lại đam mê tửu sắc, đàn bà con gái gặp được ai ưa ý là sai bắt cho được về nhà. Vợ con hết cách can ngăn mà không chịu đổi nết. Trong bọn người bị ức-hiếp có Trương-thị là người đẹp hơn cả. Trương-thị rất khẳng-khái, một mực không chịu để cho người làm ô-trọc tới thân. Mã-Hồng trước còn dỗ-dành, sau đe-dọa, sau lại trói Trương-thị vào cột mà vùi dập tơi bời. Trương-thị phần đau đớn, phần tức-giận, đến đêm hôm thứ ba, Mã-Hồng mở cửa đi vào chỗ trói Trương-thị thì thấy đã cắn lưỡi chết từ lâu rồi. Mã-Hồng vội sai người đắp điếm rồi ngầm đem vùi một nơi. Chồng Trương-thị là Lý-Ưng đi buôn ngọc với con trai ở xa về, nghe tin ấy lấy làm căm tức lắm. Nhưng không làm gì được, vì mình thì bé miệng, mà họ Mã thì quyền-thế, đi kêu đi khiếu chắc chả ăn thua gì. Sau cha con dò biết được chỗ chôn Trương-thị, đợi đến khuya cùng đào lên để cất táng cho hẳn hoi. Thấy cái hình-tượng lõa-lồ của xác vợ thì Lý-Ưng đau đớn đến điên dại, nghiến răng thề quyết giết Mã-Hồng để trả thù. Nhưng Mã-Hồng đã biết trước, lại dùng luôn cái việc báo-thù của Lý-Ưng để hại Lý-Ưng. Một đêm Ưng lẻn vào trướng phủ Mã-Hồng, trông thấy Mã-Hồng ngồi một mình đọc sách, hắn bèn cầm dao lại đâm. Bỗng bị gia-đinh của Mã-Hồng đổ ra bắt trói lại. Lý-Ưng bị bắt, Mã-Hồng biết thế nào con Lý-Ưng cũug phục thù cho cha, bèn nghĩ ra một kế rất độc là hãm Lý-Ưng vào cái tội âm mưu với ngoại-quốc về hãm-hại công thần. Trong nước bấy giờ vẫn bình-trị, không có điều chi lo-ngại về ngoại-bang, ấy thế mà lá sớ của Mã-Hồng tâu lên triều-đình tin ngay, hạ chỉ xuống bắt lấy cha con Lý-Ưng và tru-di tam- tộc. Mã-Hồng tịch biên lấy gia sản nhà họ Lý. Bao nhiêu bạc vàng châu báu lượm lấy hết, trích ra một phần đút lót thêm cho các đại-thần để công việc như ý của hắn chóng xong.
Con trai Lý-Ưng là Lý-Thạch, đang chạy chọt cố kêu oan cho cha, thấy tin ấy không dám về nhà nữa, phải ẩn náu một nơi rồi tìm phương trốn chạy. Sau khi Lý-Ưng bị xử-tử, Lý-Thạch rất là khổ-cực, liền phẫn chí theo một bọn cướp rừng rất ghê gớm ở Thanh-lâm.
Cách đó ba năm Mã-Hồng đương ung-dung làm điều ác, thì đang đêm bị người nhảy vào tận phủ giết chết. Bên cạnh thấy có một bức thư, ký tên Lý-Thạch. Trong thư Lý-Thạch nguyền rằng sẽ giết chết ba đời nhà họ Mã. Việc ám-sát Mã-Hồng trừ người nhà ra thì không ai biết đến, vì Mã phu-nhân và con trai sợ lại thêm phần nhơ-nhuốc cho gia-thanh. Bởi thế người ngoài vẫn tưởng là Mã-Hồng chết vì ngộ cảm. Mã-Hồng vừa bị giểt được năm hôm thì Mã phu-nhân không biết đi đâu mất. Cả nhà không hiểu ra sao cả. Một hôm, Mã-Hoằng là con trai trở dậy sớm, bỗng trông thấy một mũi tên cắm ở cửa buồng phu-nhân, cuối tên có buộc một mảnh giấy, giở ra đọc thì thấy năm chữ: « Hảo-hán báo mẫu-thù ». Mã-Hoằng lại nhớ lại bức thư bên cạnh thây cha, biết rằng phu-nhân cũng bị Lý-Thạch hãm-hại. Chàng lo sợ lắm ; mấy lời nguyền cả quyết báo thù kia tất không khi nào I.ý-Thạch quên được. Vậy thì, chàng rồi đây tất cũng bị cái tay phạt cha mình kia giết cả đến mình. Giết mình rồi giết cả vợ con mình nữa. Ngoài mặt vẫn không cho ai biết đến điều mình lo sợ mà trong bụng vẫn đêm ngày tìm phương tránh cái nguy-cơ. Mã-Hoằng có một trai là Mã-Sinh. bấy giờ đã mười bốn tuổi. Mã-Sinh đang đi học ở nhà thì thấy cha gửi về Quảng-đông cho một ông bạn. Trước khi đi. Mã-Hoằng đã ghé tai dặn-dò cẩn-thận rằng đi xa như thế là cốt để lánh mình. Mã-Sinh cứ đi trước, độ năm bữa nửa tháng thu-xếp cửa nhà rồi cha mẹ sẽ cùng sang.
Mã-Sinh đến Quảng-đông được hai mươi hôm thì có tên đầy-tớ tín-cẩn ở nhà ngày đêm đi từ nhà đến báo rằng cha Mã- Sinh vừa bị một mũi tên của Lý-Thạch bắn chết, mà mẹ Mã-Sinh mấy hôm sau cũng không biết đi đâu.
Thế là trong hai tháng trời, cha con họ Mã cùng chết về một tay Lý-Thạch. Trong lá thư đầu đã nói: Lý-Thạch còn báo thù nữa, còn lấy máu ba đời cừu-nhân để hả cái oan hồn của cha mẹ họ hàng. Vậy thì Mã-Sinh sống ngày nào còn phải lo ngày ấy.
Nhưng lạ thay! Đã bốn năm năm rồi mà Mã-Sinh vẫn vô-sự. Có lẽ Mã-Sinh đã hết lòng làm điều nhân-nghĩa để mua chuộc cái tội của cha ông nên được thần-minh che-chở chăng? Mã-Sinh nghĩ thế, nên khi được bổ làm tri-huyện ở Phù-châu, cái phẩm-hạnh liêm-chính của chàng trong quan liêu không mấy ai sánh kịp. Hai mươi tuổi thì lấy vợ, gặp được vợ vừa đẹp vừa hiền, đã tưởng được yên tâm mà vui thú đình-viên, ngờ đâu một bức thư của Lý-Thạch bắn vào lại làm cho chàng lo sợ.
Thư rằng:
« Cha mẹ, họ hàng ta đang an cư, lạc-nqhiệp, tổ-phụ nhà ngươi dùng thủ-đoạn thái-ác mà làm cho phải chết, khối máu căm hờn chưa biết bao giờ mới tan. Ta may mà còn lọt sống tại đây, nên quyết dùng cái sống thừa đó làm cho ba đời nhà ngươi cùng chịu với cha mẹ ta một số phận.
« Bấy lâu ngươi chưa chết là vì ngươi chưa có gia-đinh để ta đến phá. Bây giờ ngươi đã có vợ, là ta đã đến lúc ra tay. Đầu của ngươi, ta đem tế cha ta, còn đầu của vợ ngươi ta sẽ đem tế mẹ ta ngày nay ở dưới cửu-tuyền vẫn đợi trông ta báo phục. »
Thu-Liễu nghe hết đầu đuôi câu chuyện, lo sợ lắm bàn với chồng tìm phương đề phòng. Mã-Sinh thở dài nói rằng đề phòng cũng vô ích, vì nếu nó biết mình đề phòng mà thoát khỏi tay nó, nó đã không bắn thư đe trước làm gì. Vả Mã-Sinh vẫn giấu kín việc nhà, ngoài Thu-Liễu ra chàng không dám đem tâm sự mà ngỏ cho ai biết nữa. Thu-Liễu thấy thế, phần thương chồng, phần thương cho mình, rồi hai người ôm nhau mà khóc.
Vợ-chồng Mã-Sinh ngồi lo-sợ thâu đêm, tường tuy cao, cửa tuy kín, nhưng không thâm nghiêm bằng dinh phủ của ông cha mình. Mã-Hoằng cũng biết trước có ngày Lý-Thạch đến giết, biết trước nên đã phòng giữ hết sức, thế mà tên cướp rừng tự xưng là hảo-hán kia cũng lẻn được vào mà trả thù. Thế thì cái dinh bé nhỏ này ngăn ngừa sao được nó. Mã-Sinh đành bó tay ngồi đó, phó mặc thân mình cho trời đất, nếu kẻ thù nó đến, chỉ cố kêu van cho Thu-Liễu khỏi chết oan vì chàng.
Đang lúc nôn nao sợ bãi, cửa phòng bỗng bật toang ra. Một người to béo lực-lưỡng bước vào, giơ một con dao sáng cũng như hai con mắt nó. Thu-Liễu rú lên một tiếng chết ngất người đi, rồi từ đó không biết tí gì nữa, mãi cho đến lúc Lý-Thạch đem xuống dưới cái hầm kia mới tỉnh lại.
Nguyên cái hầm này là Lý-Ưng tìm ra khi trước, bao nhiêu vàng ngọc người Tàu giấu từ xưa đều thuộc về tay hắn. Đến nay, của đã hết nhẵn, Lý-Thạch bèn dùng làm nơi chôn cất thi hài song thân, và làm nơi hành hình. Cái hình phạt Thu-Liễu phải chịu đó, nó nói cho biết là để nó tế hồn cha mẹ, nên trước khi ra tay, nó nhớ đến cái thảm cảnh khốc hại nhà nó, nên động lòng gào khóc ở trên phiến đá nó đặt làm tấm bia mồ. Trong cơn thịnh nộ, Lý- Thạch vừa nguyền rủa vừa kể lể lại vừa quát tháo nói lớn lên bảo cho Thu-Liễu hay rằng: «Bao nhiêu con trai họ Mã đều phải chết như phụ-thân của nó, mà bao nhiêu con gái con dâu nhà họ Mã cũng chịu một hình phạt cay độc nhơ nhuốc như mẹ nó đã bị hành-hạ khi xưa. » Khi nó đã giết hết ba đời nhà Mã-Hồng, nó sẽ đem chôn những thủ cấp kẻ thù xuống hầm này, để cho cha mẹ nó ở dưới âm-ti còn được báo thù một phen nữa.
Duyên do câu chuyện quái-gở ghê gớm này đều ở trong bức thơ « trần tình » ấy. Cuối thư, tôi còn nhớ kỹ được một đoạn như sau này:
«Thiếp nhờ được tay tráng-sĩ, nên thoát khỏi lưỡi dao độc-địa của thù-nhân. Những tưởng thân còn được sống để mong rồi đây có ngày báo đáp cái ơn cứu-mệnh. Nào hay bấy nhiêu hình khổ, cùng với bấy nhiêu điều khiếp sợ, đã làm cho thiếp mang trọng bệnh mà từ bỏ trần gian.
«Đáng lẽ những việc trên đây thiếp phải giữ kín, nhưng nghĩ tấm thân gửi nơi ngoại-địa, không đành làm một khối oan-hồn bí-mật, khiến cho tráng-sĩ không hiểu những tội tình thiếp phải chịu, là duyên cớ bởi vì đâu.
« Vậy thiếp xin để lại mấy lời này, xin tráng-sĩ soi xét. »
HẾT