← Quay lại trang sách

Chương IV

Đầu tôi đã gần mũi dao quá, ngước mắt không trông thấy nữa, nhưng phỏng cũng chỉ còn gần một gang tay. Tôi liền nhắm mắt lại để tôi không nhìn cái bộ dạng đáng ghét của thằng Khách, trong lòng có đủ các mối bi-thảm, khó thể tả được rõ ràng. Đỉnh đầu bây giờ cứ thấy ghê-ghê rợn-rợn, hình như con dao sắp được lọt vào đầu người, đang phun trước ra một tia hơi độc để đánh dấu lấy chỗ nào đáng cắm, đáng chui vào. Tinh-thần đã loạn cả: chỉ trong khoảng hai hơi thở, hai cái đập của quả tim mà tôi thoáng nghĩ đến trăm nghìn muôn ức triệu những hình-ảnh rất ly-kỳ. Mà vẫn nghe thấy người con gái như còn khóc, nghe thấy tiếng thằng Khách hãy còn hò. Rồi như xôn-xao tiếng người thưa gọi, rồi như huỳnh-huỵch có tiếng người tấp-nập chen-chúc nhau…. Mũi dao đã chạm đến da đầu tôi, hai tai ù bỗng nghe rõ một tiếng reo… người tôi thấy hẫng lên rồi hạ nằm xuống đất. Mở mắt ra thì trông toàn là mặt quen không biết tới tự bao giờ. Bạn săn của tôi lấy dao, người thì cởi tay, người thì gỡ cẳng. Tôi vẫn mơ-màng chưa hiểu ra sao. Trông đến người con gái thì mặt mày xám bặt bấy giờ bất tỉnh, vẫn bị trói, vẫn trần truồng. Người Nùng tranh nhau hỏi han, tôi chỉ ư-hử không trả lời được, chỉ tay trỏ người con gái cho họ nhổ dao bên mình và cởi trói cho cô ta. Còn thằng Khách thì bị mấy người đang đè xuống, lấy dây trói chằng chịt từ đầu đến chân.

Bấy giờ tôi mới biết là thoát nạn.

Tôi đã hoàn hồn rồi, người con gái họ đã mặc áo xống cho và đã đặt nằm một chỗ đợi cô ta hồi tỉnh. Tôi bèn đem đầu đuôi việc ở dưới hầm kể qua cho họ nghe. Nhân lại hỏi họ sao biết tôi bị nạn mà đến cứu.

Người Nùng nghỉ săn sớm, để đến trưa mai đem ít da cọp đi trình ông Châu Mùng-sa. Về đến miếu không thấy tôi đâu, lại thấy mất một nải gạo. Họ còn chưa biết duyên cớ, bỗng vẳng nghe tiếng khóc và tiếng quát tháo, họ liền vào miếu trong tìm xem. Không có gì cả, nhưng tiếng khóc vẫn còn. Trước họ còn tưởng là ông Thần miếu đe nạt, sau bỗng tìm ra lối xuống hầm. Nguyên lúc tôi chực trốn đã mở hé được phiến gạch mà thằng Khách vô-tình không đậy lại, nên người Nùng mới biết mà mở được ra. Họ mở ra, trước hết trông ngay thấy tôi và người con gái bị trói, rồi thấy thằng Khách xí-xố trước bệ thờ. Họ bèn rón rén xuống cả, cùng ồ lại một lượt bắt lấy thằng Khách. Hai bên xung đột một hồi, thằng Khách mới chịu thua. Trong lúc đó hai người đến cứu tôi. Trước hết lấy chân ngả đổ con dao xuống, rồi một người nâng tôi lên cho người kia cắt dây. Thực hú vía! Tôi có ngờ đâu còn được sống ở cõi trần.

Chúng tôi bàn định đến sáng rõ thì dẫn người con gái và thằng Khách lên quan Châu Mùng-sa để tra-vấn. Bỗng thấy thằng Khách thách lên cười. Tiếng cười nghe ghê rợn, không ra khanh-khách, không ra cười hì; cứ thấy tiếng « hệch-hệch » rất lớn tợ như tiếng ếch nhái nó ỳ-ào ỳ-oặc liên-thanh sau những trận mưa to. Ai nấy cùng kinh ngạc, lại gần xem thì thấy trên người thằng Khách máu chảy chan-chan ; thì ra cái tay bị trói đè trên bụng đã cố lần rút ruột ra mà tự-tử! Chúng tôi không kịp ngăn cản thì thằng Khách đã chết. Hai mắt trừng-trừng còn mở, trao-tráo nhìn vào mặt tôi. Tôi trông mà kinh khiếp, bỗng lại tưởng đến hai con mắt của con trăn bị giết hôm nào… Trời ơi, hai con mắt yêu quái kia, mỗi khi tôi chợt nghĩ tới, lại như xiên qua khắp người tôi, khiến cho tôi hoảng-hốt cả tâm-hồn. Cả đến tiếng cười kia cũng đáng kinh khủng, trước khi nó chết, hình như hẹn tôi rằng nó còn tìm được mưu độc, để rồi đây còn hại cho được tôi. Trong cuộc đời của tôi sau này, khi gặp sự gì nguy-hiểm lại nghi cho vong-hồn con ác-quỉ kia xui nên ; mà khi nào yên vui cũng không yên vui được trọn, tôi vẫn chột dạ hoài, vẫn tưởng-tưọng như cái vong-hồn kia còn vơ-vất đâu đây, cái vong-hồn thằng Khách, cái vong-hồn chứa đầy những điều căm hờn hằn-học, chỉ chực những ám-ảnh tôi, những phá rối sự thái-bình của tôi cho kỳ được mới nghe.

Bấy giờ các người Nùng đều lắc đầu le lưỡi. Còn tôi, thì như đã dạn với những điều quái-đản từ lúc nãy, nên không lấy sự thằng Khách cấu rốn tự-tử làm lạ-lùng. Duy chỉ ghê sợ, không dám nhìn hai con mắt của nó nữa, và cứ băn-khoăn nghĩ-ngọi một mình hoài.

Việc dưới hầm này thằng Khách hẳn đã rắp từ lâu, mà chừng làm đã quen lắm, nên mới có những hình-cụ tôi trông thấy trong hầm. Nay thấy một bọn người tự đâu đâu kéo đến ở đây từ bao giờ, thì hắn lấy làm lạ. Vậy nên hắn phải dò xét. Những lúc tôi thốt-nhiên thấy bóng thằng Khách, có lẽ chính là những lúc nó quanh quất gần đó mà dòm-dỏ chúng tôi. Cả cái lúc len vào lều cũng là để lẩn-lút, nhân thể để làm cho cái thói dị-đoan của người Nùng thêm vững-vàng mà không chú ý gì đến công việc của nó. — Ấy là tôi đoán phỏng thế, chẳng biết nó vào trong lều còn có ý gì nữa không. — Lúc nó lẻn vào lều chỉ có tôi trông thấy, mà dẫu cả mọi người trông thấy cũng không tìm ra ; ai ngờ đâu rằng có cái hầm dưới đất, là chỗ thằng Khách xuống ẩn. Thế thì việc cúng ông « Thẻng Thần » của người Nùng là một việc không đâu, thằng Khách nó có biết họ cầu cúng nó hẳn cũng phì cười cho bọn ngố. Khi dò xét đã biết được rằng chúng tôi là bọn đi săn, mà chỉ đi săn đêm nên mới dám đem tội nhân của hắn xuống. Hắn không ngờ là trong lều còn có tôi, mà vì có sự tình cờ đêm hôm ấy tôi mới phải một phen hút chết.

Song thằng Khách ấy là người thế nào, sao lại đến đây mà làm việc độc ác như thế?

*

Song thằng Khách đã chết thì bao nhiêu điều ẩn-tình về việc này chỉ còn người con gái Trung-hoa kia mới biết được. Từ hôm đi trình ông Châu thì cô ta cứ mê-mê mẩn-mẩn, khi cười khi khóc như người điên rồ. Quan Châu biết chưa thể tra-vấn được, nên cắt người săn sóc thuốc thang đợi cho cô ta hoàn hồn. Trong khi đó, các người Nùng ở những thôn gần đó, không ngày nào không nói đến việc lạ lùng này. Người thì cho rằng người con gái kia là một vật hy-sinh đem đến để cho con yêu trong hầm ăn thịt. Người thì bảo thằng Khách cưới vợ cho Thổ-thần, lại có người lo sợ rằng ông Thổ-thần ấy sẽ oán người Nùng vì đã làm chết mất người Khách là người hằng năm đi vào trong hầm cúng tế. Họ có kể cho tôi nghe rằng mấy năm trước đây, họ trông thấy một người Khách to béo đi vào trong rừng hoang, khi đi một mình, khi dẫn theo một người con gái ; hễ gặp thấy người Nùng là chạy, rồi không biết biến đi đàng nào mất.

Những điều người Nùng đoán đều ngây-ngô lắm, tôi không tin, nhưng cũng chẳng muốn cười chê bài bác làm gì. Duy có điều tôi cũng còn ngờ-ngợ là thấy họ nói là đã gặp thằng Khách một đôi lần rồi. Như thế thì có lẽ cái cảnh-tượng tôi trông thấy đêm xưa chưa chắc chỉ là đầu-tiên. Mà nếu thằng Khách không bị bắt thì chưa biết chừng nó còn làm ngấm-ngầm những điều độc ác đến mấy mươi lần nữa. Ông Châu và những người có trách-nhiệm và chú-ý đến việc này, trong khi đợi người con gái khỏi hẳn, đều băn-khoăn như tôi. Thằng Khách ấy là người thế nào, và nó giở những thủ-đoan kia ra làm gì: Bí-mật!

Đoán mãi, lúc thì bảo thế này, lúc thì tưởng thế khác, càng ngày càng chẳng ra nghĩa-lý gì. Khám xét trong hầm thì chỉ biết là một cái hầm kín đào đã lâu lắm. Cửa hầm thì ở trong một góc sân miếu, mà hầm thì lại đào ở ngoài. Có lẽ cái miếu dựng nên chỉ để làm nơi đánh dấu, và để cho người ra vào miếu không bị ai nghi ngờ gì. Tìm lục mọi nơi trong hầm thì ngoài những cái tôi trông thấy, chỉ thêm được một nắm lương khô thằng Khách đem theo, nhưng nắm lương ấy không bảo thêm được điều gì cả.

Người con gái Tàu thì càng ngày càng yếu. Không mê-hoảng như mấy hôm đầu nữa, song bệnh-tình cô ta trầm trọng như thế, xem chừng không sống được lâu. Một hôm, tôi đến thăm cô ta, cô ta ứa nước mắt không nói được, tôi lấy giọng ôn-tồn dịu ngọt yên-ủy cô ta. Tuy không không hiểu tiếng tôi nói, nhưng cũng biết là lời khuyên nhủ mình, cô ta hơi mỉm cười mà gật.

Cách đó ít lâu, tôi lại đến châu Mùng-sa thì người con gái Tàu đã chết. Tôi bùi-ngùi lắm toan trở ra về thì ông Châu cho người mời tôi vào nói chuyện. Vào đến nơi, ông ta đưa cho tôi một phong thư của người con gái để lại. Bức thư dài lắm, chữ viết ẻo-lả chi-chít nhưng cũng đủ rõ-ràng. Ông Châu nói rằng trước hôm người con gái Tàu tắt nghỉ, lại thấy tươi tỉnh, ra hiệu cho người cầm giấy bút đến và nâng ngồi dậy để viết bức thư này. Trong thư kể rõ duyên cớ vì sao cô ta bị nạn trong tay thằng Khách.