- 2 -
Từ buổi chiều đó, Ka-ti-u-cha nghĩ nhiều tới Ma-la-khốp. Chị luôn luôn tự trách mình sao lại đón tiếp anh thờ ơ như vậy. Chị đau khổ nhất là không biết tin tức gì về anh cả. Bây giờ anh thế nào? Anh ở đâu?
Vừa lúc đó thì chị nhận được lá thư ngoài mặt trận gửi về. Sau khi ra khỏi quân y viện, không cần phải nghỉ ngơi, anh trở về ngay trung đoàn. Từ ở đấy, anh viết là anh yêu chị, do đó thà là đi còn hơn là ở lại Xê-li-a-nít-xi. Thời buổi này biết đâu mà lường trước được. Trong cơn khói lửa, tai họa cũng dễ xảy ra nhanh lắm. Anh yêu cầu chị trả lời ngay. Nhưng có lẽ anh đâu xứng được cái vinh dự chị trả lời. Hay là chị còn băn khoăn vì có On-ga chăng? Chị không cần gì phải áy náy, anh sẽ yêu nó như con đẻ vậy.
Bức thư viết bằng một bàn tay vững chắc. Nó kết thúc bằng hai chữ “chào chị” và một chữ ký ngoằng lên đầy nghị lực.
Ka-ti-u-cha đọc đi đọc lại bức thư nhiều lần. Bây giờ Ma-la-khốp đã đi rồi chị mới nhận rõ tại sao lại có con người dũng cảm và thẳng thắn đến như vây. Chị lo đến nỗi không dám nghĩ ngay tới cái việc là anh lại bị hy sinh chính vào trong cái tháng đáng lý còn được nghỉ ở đây. Trong suốt cả thời gian đó, chị cứ canh cánh trong lòng, sốt ruột chờ mong thư, được thư là trả lời tức khắc, nhưng không bao giờ chị nhắc nhở tới lời anh ngỏ ý cả. Không có hứa hẹn tương lai gì, chị chỉ chúc anh bình an vô sự. Thái độ đó lại càng làm cho Ma-la-khốp đòi hỏi tình yêu thêm tha thiết hơn. Sự thổ lộ đó làm cho chị mơ màng. Trong các bức thư của chị, mới đầu tình yêu biểu lộ một cách rụt rè, rồi bạo dạn hơn, cho tới cuối cùng chị quyết tâm viết là chị mong đợi anh, chị sẽ sung sướng được đón anh về miễn là chiến tranh kết thúc mau chóng.
Câu chuyện đến đây lại có một hoàn cảnh mới xen vào. Trong các thư từ anh viết đi đều có nhắc tới mẹ anh và mỗi khi viết về cho mẹ, Ma-la-khốp cũng thường nói tới Ka-ti-u-cha. Chị mới quyết định đến thăm bà cụ để chấm dứt mọi nghi ngờ và dày vò của mình. “Nếu thật quả anh ta có nói chuyện mình với bà cụ thì đúng là anh ta yêu mình thật sự, và nếu vậy thì số phận ta đã quyết định. Ta cần phải nói là đồng ý”.
Được phép, chị gửi On-ga bên chị hàng xóm và ra đi.
Nhìn qua cửa sổ, chị thấy nào rừng rậm, nào đồng bằng với những cây cối cứ như múa may, nào những cầu mà tàu chạy qua tiếng kêu ầm ầm ghê sợ. Đoàn tàu vượt qua dãy núi U-ran để tiến vào những đồng cỏ bát ngát vô tận. Bao nhiêu phong cảnh liên tiếp diễu qua trước mắt, Ka-ti-u-cha hoàn toàn dửng dưng, và càng nhiều lúc chị có ý nghĩ cho mình đi như thế này thật là điên rồ.
Bốn ngày sau chị tới nơi. Nhà ga, cũng như mọi nhà ga khác, ùn lên những người. Nhiều người ngủ cả lên ghế dài, và cả lên đất, có người ngồi, có người nằm, có người có con hoặc không con, người nông thôn và người thành thị. Ai nấy đi theo con đường của mình, kiệt quệ vì chiến tranh, có sao ăn mặc vậy. “Sao mình tự dưng lại có cái ý định này?” Chị tự hỏi mình đến hàng trăm lần rồi. “Phải cần gặp mẹ anh ta đến thế cơ à? Như thể là mình không rõ cái lối mẹ chồng yêu nàng dâu như thế nào, nhất là nàng dâu ấy lại là một cô bỏ chồng, lại còn đèo thêm một đứa con nhỏ trên tay nữa chứ!”
Dù sao chị vẫn cứ đi. Đó đây cánh đồng bát ngát. Trong làn sương mờ xanh xanh, hình nét dãy núi thoáng hiện lên. Ka-ti-u-cha bắt gặp một ông vắt vẻo một con ngựa nhỏ lông xù từ đằng kia đi lại. Đầu ông ta chụp một thiếc mũ dạ nhọn, người vận một áo bông. Theo sau là một phụ nữ, cũng đi ngựa, chiếc tẩu thuốc gắn chễm chệ trên môi. “Trời ơi, người địa phương này sao mà trông kỳ vậy!” Ka-ti-u-cha nghĩ bụng và lòng càng thắt lại.
Nhưng chị đã đi vào một làng Nga như mọi làng khác với những căn nhà bằng cột gỗ, một đường phố rộng cỏ mọc lan tràn, với những bầy chó sủa trong cửa. Cảnh thân thuộc đó khiến chị mạnh dạn lên.
Chị không mất công lâu mới tìm thấy nhà Ma-la-khốp, một ngôi nhà vững chắc, xung quanh có hàng rào. Một con chó già xù lông xồ vào chị nhưng chỉ đứng thẳng người lên ở đầu xích, ngầu lên giận dữ.
Một bà cụ già cao lớn, váy cộc và áo đan bạc màu, từ trong chuồng bò đi ra. Bà ta thét chó im, nó vào trong cũi, nhưng vẫn gầm gừ. Bà chủ nhà ngắm nghía kỹ cô khách lạ mới đến. Cuộc chiến tranh này đã tạo ra vô ngần là người đi lánh nạn, người ta gọi họ là những người tản cư. Họ đổi quần áo lấy bánh, khoai, bơ. Thường thường họ tiến vào sân dáng điệu rụt rè, liền đó nở một nụ cười ngượng ngập, hỏi xem có ai cần đến một bộ quần áo, hoặc một đôi giầy. Bà cụ Ma-la-khốp thì không cần gì cả.
Lại đi nghĩ đến ăn mặc khi hai con đang chiến đấu, còn đứa thứ nhất đã hy sinh ở gần Kuốc-sơ! Nhưng không bao giờ bà cụ lại nỡ đuổi những con người khốn khổ này mà không mời vào nhà cho ăn. Hình như lòng tốt của bà cụ đã dùng làm chỗ dựa để che chở cho các con.
Người phụ nữ đang tiến đến trước mặt bà, không có vẻ gì là một người đi lánh nạn.
- Chào cụ.
Tiếng chị vang to, hai mắt sáng lên trong cái màu xanh trong trẻo.
- Chào chị.
Bà cụ thận trọng trả lời lại, trong bụng nghĩ: "đôi mắt đến đẹp!"
- Cụ có gì cho con uống được không?
- Tất nhiên.
Bà cụ trả lời xong, mời chị vào nhà. Vừa uống, Ka-ti-u-cha vừa ngó quanh bếp vừa tảng lờ như không có vẻ chú ý. Không có gì đáng kể. Một chiếc lò đun to tướng giống như ở bếp nhà chị. Một chiếc ghế dài kê dọc tường, một chiếc bàn trước cửa sổ. Qua chiếc cửa mở, nhìn thấy rõ cả một phần nhà trên. Trên giường ngủ, một tấm thảm có in mấy con thiên nga. Thế là hết!
- Con đi mệt lử. - Giọng Ka-ti-u-cha thản nhiên - chen chúc đến chết ở trên tàu.
- Con ở đâu đến?
- Vùng Vôn-ga.
- Vùng Vôn-ga à? - Mặt bà cụ tươi lên càng thêm hiền hậu - thằng út nhà tôi đã có lần nằm điều trị tại quân y ở đó - Cụ nói xong thoáng nở một nụ cười yếu ớt trên đôi môi đã nhăn nheo.
- Nhà cụ đến lặng lẽ.
Ka-ti-u-cha nói cốt che lấp sự xúc động của mình.
- Đến chiều mà xem, chả thiếu tiếng huyên náo đâu. Bọn trẻ đi học về và mấy đứa dâu tôi xong công việc đồng áng.
- Các anh ấy đều xây dựng gia đình cả rồi? - Ka-ti-u-cha hỏi với một giọng thật ngây thơ.
- Hai thằng thôi. Thằng thứ ba lúc đi chưa lấy vợ.
- Cả ba đều ra trận hả cụ?
- Còn gì nữa, chị tính chúng còn đi đâu nữa. Có cái là một đứa đã hy sinh. - Rồi cụ bật khóc.
- Anh nào?
Ka-ti-u-cha thở phào một cái dài nhẹ hẳn cả người khi thấy trả lời “thằng cả”. Sự việc đó không lọt qua được mắt bà cụ.
- Lên đây con - bà cụ đã dẫn Ka-ti-u-cha vào giữa nhà - Đấy nó đấy - bà cụ vừa nói, tay chỉ vào bức ảnh lớn của người con cả.
Một người có khuôn mặt vui tươi, nhiều nét giống hệt bà cụ, mắt nhìn chị trong cái khung màu đen. “Thế mà người ta lại bảo anh nào giống mẹ thì số sung sướng!”
- Đây là mấy thằng thứ.
Vát-xi-li! Trên chiếc ảnh, trông anh còn trẻ hơn là cái ngày chị gặp. Anh nhìn chị với đôi mắt đầy tin cậy.
- Cụ có những người con đầy dũng cảm. Trời sẽ phù hộ cho các anh ấy sống lâu và sức khỏe.
- Hãy sống cái đã. Rồi sức khỏe thì sau. Pi-ốt, nó thì được rồi - Nó chưa hề bị thương lần nào. Nhưng Vát-xi-li thì đã những hai lần vào quân y. Cũng may ở đấy có một phụ nữ đã mang cho nó mật, già này thật cảm kích vô cùng. - Đôi mắt bà cụ chĩa hẳn vào Ka-ti-u-cha thầm dò ý tứ.
Ka-ti-u-cha không chịu nổi được cái nhìn đó, đỏ ửng mặt và cúi xuống. Chị thẹn thò hỏi:
- Anh ấy có viết thư về cho cụ không?
- Có - Bà cụ tủm tỉm cười. Bà đã rõ cả. Đúng là cô ả rồi, cái cô xinh đẹp có đôi mắt xanh mà Vát-xi-li mỗi lần viết thư về đều nhắc tới. Dùng cái mẹo ngớ ngẩn ấy mà cô đã dám đến đây dò xét... - Nó viết cho già này và có nhắc tới con.
Ka-ti-u-cha bối rối. Cụ lại tiếp với cái giọng trách móc nhẹ nhàng:
- Đến đây bằng cách ấy con không thấy ngượng ư?
Ka-ti-u-cha ở chơi nhà Ma-la-khốp hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Chị thuật hết chuyện mình, nhắc tới đời chồng cũ đầy đau khổ. Chị lại nói về On-ga, về những thư của Vát-xi-li viết cho chị.
- Thế mà con cứ băn khoăn chả biết nên trả lời anh ấy thế nào.
- Ngày còn lâu mới hết, vội chi đã phải lo tới tối. Con cứ thử ngẫm mà xem, chúng ta ngồi đây đang chuyện trò về nó, nói phỉ phui thôi, biết đâu trong lúc này nó đang quằn quại trong vũng máu rồi. Vả chăng nói cho cùng, dù cho con không yêu nó đi nữa thì viết thư bảo là yêu đã thiệt gì?
Giọng bà cụ run lên tức bực, vì thấy người phụ nữ này không yêu con mình.
... Hè qua, mưa thu rả rích. Ngày càng rút ngắn mãi đi. Đêm càng dài dằng dặc và đen như mực. Tiếp đó là giá rét, bão tuyết, đường sá và nhà cửa vùi trong tuyết trắng mênh mông. Rồi lại tới mùa xuân với trận mưa rào ấm áp, chim đi tránh rét nay đã trở về, với hoa linh lan và lòng tin tưởng. Đây là mùa xuân cuối cùng của cuộc chiến tranh khủng khiếp và là mùa xuân của chiến thắng. Bao trái tim mấy năm nay héo hắt lo âu, bây giờ thấy nở nang ra. Tất cả những gì tốt đẹp nhất, mến thương nhất và trong trắng nhất chứa đựng trong lòng đều muốn giãi bày ra. Chị em phụ nữ vui sướng đến chảy nước mắt, ôm chặt lấy nhau. Bọn trẻ chạy ngoài phố vừa gào: “Hết chiến tranh rồi!” Tin đó đối với mọi người chả còn là một tin mới mẻ gì nhưng chúng cũng mặc kệ. Các bậc già vươn hẳn chiếc lưng còng lên, còn các cụ bà vừa nghe đài phát thanh, vừa thành kính hướng lên các bức ảnh Thánh, hướng về phía nhà thờ trắng xóa và làm dấu.
Binh lính lần lượt trở về làng.
- Xi-lăng-ti-ép đã về!
- Pờ-rô-khô-rốp cũng thế!
- Cả Svét-vết-ni-kốp nữa!
Những con người chiến thắng ấy nhờn nhơ ngoài đường làng Xê-li-a-nít-xi, kiêu kiêu và giản dị trong chiếc áo bông sặc mùi mồ hôi muối, lủng lẳng những huy chương và huân chương. Bên cạnh họ là các bà vợ, những con người sung sướng nhất đời.
Nhưng càng nhiều binh sĩ về, Ka-ti-u-cha lại càng thêm lo ngại. Luôn luôn chị tưởng chừng Ma-la-khốp không còn về nữa. Bây giờ thì chị đã yêu anh rồi. Và chính vì thế mà chị không còn tin tưởng anh quay trở về nữa. Dường như có định mệnh bắt phải thế.
Hạnh phúc bao giờ cũng bắt phải chờ đợi. Nó có vội vã bao giờ đâu. Lại một lần nữa, lá vàng rụng, lúa vụ gặt đầu tiên sau chiến tranh từ ngoài đồng đưa về chất đầy vựa bịch.
Vừa đúng mùa đông Ma-la-khốp thình lình tới, giữa lúc sông Vôn-ga bị kẹp ở những tảng băng. Từng đoàn người dài lê trên các đường cái. Một thứ im lặng của tuyết trắng man mác khắp cánh đồng. Vòm trời, bát ngát và yên tĩnh bao trùm mặt đất. Và trong bầu trời đó, mặt trời lóe lên một ánh nắng mùa đông chói lòa.
Căn nhà trống trải. Chiếc khóa đen nặng trĩu, thõng ở ngoài cửa. Ma-la-khốp gửi hành lý bên hàng xóm rồi ba chân bốn cẳng chạy ra ngoài trại.
Trong căn nhà lớn mờ sáng, các cô vắt sữa, cô nào cũng áo ngoài trắng xóa như hệt các cô nữ y tá. Ka-ti-u-cha vận áo bông, đầu bịt kín chiếc khăn, ngồi riêng phía trước bàn.
Ma-la-khốp sừng sững trước mặt chị:
- Chào Ka-ti-a.
Ớ người ra không nói được nên lời, Ka-ti-u-cha nhỏm dậy.
- Cô xem, tôi đã về đây đúng như đã hứa với cô!
Chị được thấy lại đôi mắt long lanh sung sướng. Ka-ti-u-cha chỉ còn kêu lên được một tiếng.
- Vát-xi-li!
Anh chìa tay ra phía chị. Bọn chị em vắt sữa ngắm nhìn hai người. A-nít-xi-a hích đôi vai mập mạp, tiến lên trước mặt họ trầm trồ nói với các bạn bè:
- Anh ta đóng đại úy kia kìa!
Ka-ti-u-cha dịu dàng nói:
- Thôi đi về nhà.
Và suốt dọc đường, chị quay mặt không dám nhìn anh, hoặc mỉm cười một cách rụt rè, thẹn thò như một cô thiếu nữ. Cuộc tình duyên cũ chưa động chạm gì đến con tim ấy.
Chị mở khóa mãi mới được. Rồi chị để Ma-la-khốp vào trước. Chị vào theo, dừng lại ở ngưỡng cửa và cúi mặt xuống. Ma-la-khốp nâng mặt chị lên, hôn vào giữa đôi môi hé mở. Ka-ti-u-cha bắt gặp đôi mắt Ma-la-khốp và sát vào anh. Ma-la-khốp nghe thấy rõ cả tiếng tim chị đập mạnh và càng ôm lấy chị thật chặt vừa nhìn thẳng vào đôi mắt xanh e ngại đó.
Cửa kẹt mở, Ka-ti-u-cha vội né người ra.
Thở hồng hộc, mặt đỏ ửng lên vì rét, On-ga chạy vụt vào như gió. Nó ném vội chiếc cặp và sa sầm ngay mặt khi nhìn thấy một anh thương binh lạ mặt. Nhưng liên sau đó sực nhớ ra ngay.
- Chú Vat-xi-li!
Ma-la-khốp ghì lấy đôi vai ẻo lả và nhấc bổng em lên đến tận trần nhà.
- On-ga, cháu chóng lớn quá! Khó mà nhận ra cháu.
- Thế mà cháu nhận ra chú ngay đấy! Mới thoạt một cái là biết ngay. - On-ga reo lên sung sướng.
- Tốt, thoạt đầu tiên đã nhớ ra chú ngay thì chú phải có quà gì cho cháu mới được - Ma-la-khốp lôi trong va li ra một con búp bê có đôi mắt nhắm nghiền, áo lộng lẫy và đi đôi giày thật.
On-ga thích mê đi. Nó còn ngần ngừ một lát không dám nhận cái vật quý ấy. Rồi nó cầm lấy con búp bê ôm vào lòng và nhảy lên chạy chung quanh nhà. Lâu nay nó vẫn ghen với các bạn có bố ở mặt trận về cho quà! Nó có bao giờ biết bố là ai đâu cho nên nó chẳng có ai mà chờ mong.
- Cháu quý chú lắm, chú Vát-xi-lị ạ! - Nó reo lên:
- Này mẹ ơi, chú Vát-xi-li không bỏ chúng ta đi nữa chứ? Chú ở đây với chúng ta chứ?
Ka-ti-u-cha nhìn Ma-la-khốp và tủm tỉm:
- Ừ.
On-ga vỗ tay reo lên.
Đêm trùm xuống rất nhanh. Họ đốt đèn. Và cảnh đêm càng thêm dịu dàng yên tĩnh.
- Em ạ, được thấy em anh sung sướng vô cùng. - Ma-la-khốp nói với Ka-ti-u-cha lúc hai người ở trong bếp. -Anh không hiểu em nghĩ về anh ra sao.
Chị cầm tay anh một cách trìu mến. Ma-la-khốp tiếp:
- Nếu em nhìn thấy được lòng anh, em sẽ thấy rõ là anh yêu em đếm mức nào. Còn em có yêu anh không?
- Tất nhiên là yêu, Vát-xi-li ạ...
Ma-la-khốp nở một nụ cười sung sướng.
- Em có ưng không? Ngày mai chúng ta ra ủy ban để làm giá thú, rồi làm lễ cưới luôn chẳng cần chờ đợi nữa.
- Anh vội quá. Làm thế nào mà thu xếp mọi việc xong trong một ngày. Ka-ti-u-cha e thẹn lấy tay xoa xoa vào tóc anh. Anh nắm tay chị và giữ chặt lấy.
- Vội? Anh đã chờ từ...
- Anh chờ thêm một tuần nữa cũng chả sao?
Tiếng On-ga gọi:
- Chú Vát-xi-a!
Ma-la-khốp vội chạy lên. Ka-ti-u-cha suy nghĩ một tý rồi đi ra giường lấy một chiếc nệm, một chiếc chăn, một chiếc gối ôm tất cả vào trong bếp làm giường cho Ma-la-khốp nằm, còn chị và On-ga, hai mẹ con thì sẽ ngủ ở trên giường.
On-ga đi nằm. Nó rất sung sướng thấy mẹ về nằm với nó. Nó đập đập mạnh đôi chân lạnh buốt.
- Ôm lấy con cho ấm, mẹ!
Nó ngủ liền, người co quắp. Rồi cả cái thân người âm ấm ấy duỗi ra và rời lòng mẹ.
Không một tiếng gì khuấy động đêm tối. Nhưng Ka-ti-u-cha cũng thừa rõ là Ma-la-khốp không ngủ, và cũng như chị, anh lắng tai để ý từng tiếng sột soạt nhà. Bỗng nhiên trời đang tối đen rạng ra. Trăng ló ra ngoài mây và tràn vào gian buồng một thứ ánh sáng mờ mờ xanh nhạt. Ka-ti-u-cha không cựa quậy. Chị chỉ lo là Vát-xi-li lại sang chỗ chị. Nhưng anh không sang, và do đó, chị biết ơn vô cùng.
Đến sáng, nhẹ nhàng và vui vẻ, chị cập rập ngoài bếp, bày thức ăn lên bàn, cho con đi học. Nhưng con vừa đi khỏi, Ma-la-khốp ôm quàng lấy chị. Và chị cũng hiểu cái việc đáng lý phải xảy ra hồi đêm thì lúc này tất phải tới. Kháng cự một cách yếu ớt, và cũng hiểu là chị không có quyền từ chối từ Vát-xi-li nữa, chị bèn để yên.
Một tuần sau đám cưới cử hành như hai người đã thỏa thuận.