- 3 -
Tiếp đến cái thời kỳ con người được sống yên tĩnh hơn. Tất cả những gì là dấu vết của chết chóc, của tai nạn, của nghĩa vụ quân sự mệt lả người, đã lùi mãi đằng sau. Những cánh tay đi tìm lấy việc làm. Những cánh tay đó đi đào đất, xây dựng nhà mới, buộc ngựa kéo xe. Làm việc, làm việc! Làm việc! Xây dựng lấy hạnh phúc cùa mình. Sống trong gia đình. Được nhìn vợ hàng ngày. Không cần viết thư nữa, nhưng được nói tận mặt. Chỉ có việc ngồi xuống và chuyện trò! Làm cho người mẹ cười. Đây này, nhìn xem tôi sống và mạnh giỏi thế này! Sáng ra, ôm con vào trong giường, đùa với chúng, kể cho chúng nghe những câu chuyện làm chúng sợ hãi nhưng bao giờ cũng kết thúc tốt. Đấy mới là cuộc sống!
Ma-la-khốp sung sướng cũng như tất cả những ai được trở về vô sự. Rồi lại thêm tình yêu nữa! Tình yêu đó đã có lúc làm anh rối loạn tâm thần khi còn ở trong hầm ngoài tiền tuyến. Bây giờ anh có thể ngắm nhìn hàng giờ cái màu xanh thăm thẩm của đôi mắt ấy. Nó đây này, ngay bên mình anh, cái màu xanh càng thêm mãnh liệt. Phải chăng đó đúng là tình yêu? Hạnh phúc mà tuổi trẻ của anh đã không biết tới?
Chị cũng vậy, tình yêu cũng đã đến. Sau giờ làm chị chạy về nhà nhanh làm sao! “Anh Vát-xi-li yêu quý của em! Làm gì để anh được thêm vui nữa. Chiều anh như thế nào?” Anh cũng vậy, không biết làm thế nào để vợ được hài lòng hơn nữa. Mặc cho sương muối và gió rét, anh đã đảo lại mái nhà; anh đã thay lại tất cả các tấm ván xộc xệch ở chuồng bò; bổ xong đống củi.
- Anh hãy nghỉ đi.
- Vì sao phải nghỉ? Như thể là anh mệt lắm ấy! Còn em hôm nay làm ăn ra sao?
Không ai trước đây hỏi chị như vậy cả.
- Em mệt à? - Cả những lời như vậy chị cũng chưa hề nghe thấy bao giờ hết.
- Kìa, sao em lại khóc?
- Không sao. Chỉ vì em sung sướng quá...
Đến là hãnh diện khi đi chơi rong phố cùng chồng! Chị chào lại người quen vẻ quan trọng làm sao! Không một ai ở trên thế gian này lại có thể bì được với Vát-xi-a, anh chàng đại úy của chị.
Sau lễ cưới, Ma-la-khốp ở nhà ba ngày. Vào địa vị người khác tất phải mất hàng tháng mới làm xuể những công việc anh đã làm trong ba ngày đó. Nhưng đã đến lúc phải nghĩ tới công việc của nông trường.
Ngồi trước bàn giấy, ông chủ tịch đang hí hoáy nạo những cặn bẩn bám vào ngòi bút. Ông là một người nặng chịch, có đôi vai trễ xuống, tóc đã hoa râm, mặt đỏ ửng, mặc một chiếc va-rơi cáu bẩn. Bọn anh em toán trưởng vừa bước ra khỏi, trên sàn toàn những mẩu thuốc hút thừa và gian buồng đầy khói xanh đặc. Ở ngoài, tuyết rơi dày đặc. Từng cục ròng ròng từ trên kính cửa.
- Hết nghỉ rồi? - ông ta nhìn thẳng vào mặt Ma-la-khốp - Muốn làm việc à?
- Đã đến lúc.
- Áo cậu nom trắng lắm, thế nhưng các ông chỉ huy thì lại thừa khối ra. Nhưng lúc phải đánh xe phân ra đồng thì lúc đó lại chẳng có ma nào. Cậu nghĩ sao?
- Thì cứ giao cho tôi làm cái gì cấp bách nhất.
Anh là người thành thực. Bất chấp loại việc gì anh cũng làm tất. Anh đã thấy rõ trong đại chiến, nông trường bị đình trệ như thế nào. Nhiều đất bị bỏ hoang. Năng suất thấp, rơm cỏ chẳng đầy đủ. Do vậy anh sẵn sàng lăn xả vào với bất kể công việc gì.
Trong chiến tranh cũng thế, không bao giờ anh băn khoăn đến cá nhân mình. Làm nhiệm vụ. Thế thôi! Nhờ lòng trung thành và tính ngay thẳng nên anh đã được đề bạt nhanh từ trung sĩ lên chức thiếu úy. Được như vậy con người anh vẫn không thay đổi gì hết. Anh vẫn y nguyên là con người trước đã từng coi một tiểu đội, nay chỉ huy một đại đội cũng vậy. Anh đã tự sắp xếp cho anh hai nhiệm vụ: tiêu diệt thật nhiều quân thù và tốn mất thật ít người. Một sự tằn tiện đơn giản. Theo con mắt anh chiến tranh là hoàn toàn không được có hoang đường. Nó chỉ là một thứ lao động độc địa và nhọc nhằn, không hơn không kém. Ma-la-khốp cố đem hết tâm sức làm cho trọn thứ lao động đó vì rằng nó rất cần thiết cho tổ quốc. Lúc này tổ quốc cần phải được phục hồi lại. Vì vậy anh sẵn sàng nhận mọi công tác.
- Cậu là một người dũng cảm vì đã biết nhận thức. Ở đây, giục giã một tý thế là người ta đã nhăn mặt lên rồi. Tuy nhiên đất cần phải bón. Thôi cậu đi tìm toán trưởng La-da-rép.
Ông chủ tịch chấm bút vào lọ mực rồi vẩy chiếc tóc dính trên đó còn nguyên cả một giọt mực đặc sệt thõng xuống. Ma-la-khốp sửa lại mũ và bước ra. Trời bắt đầu sáng. Bên kia sông Vôn-ga, vừng đông đỏ ối và lạnh lẽo, rực lên. Nhưng các vì tinh tú lớn còn lấp lánh trên không.
Đến chuồng, Ma-la-khốp đóng ngựa và lên đường. Anh cảm thấy trong người nhẹ nhõm quá. Anh nhìn chung quanh. Ở trong các nhà, trẻ em chắc đã thức dậy và sửa soạn đi học, trên dòng sông đóng băng, xe bò chở đầy rơm lướt qua. Anh ngắm nhìn cánh đồng dưới làn tuyết phủ, nhìn bình minh tỏa ánh hồng lên tuyết, bóng cây in xuống thành những vệt dài. Anh sung sướng.
Ở ngoài trại người ta xếp phân thành đống hai bên lối đi giống như một thứ hào giao thông.
Ma-la-khốp bỏ áo ngoài vớ ngay lấy một chiếc cò leo mà xúc ngay một tảng phân lớn vứt vào đáy xe. Thoạt vào khi có áo va-rơi người vẫn lành lạnh, nhưng đến khi càng xúc càng khỏe thì anh thấy người càng nóng rực và cuối cùng đến lúc xe đã chất đầy phân thì mồ hôi anh tóa ra như tắm.
Quất ngựa, anh thoăn thoắt bước trên đường cái. Vành bánh xe xiết vào tuyết, rít lên. Khí trời trong vắt như nước suối. Tất cả chung quanh đấy đẹp quá đến nỗi làm anh muốn cười lên.
Nếu nói tới sự yêu đời thì anh cảm thấy đời anh lúc này thật toàn mỹ. Cái gì cũng giản dị và rất rõ ràng. Anh lao động. Mọi người đều phải cần thứ lao động đó. Càng làm càng thấy giá trị của nó. Và một cái tốt nữa là gân cốt anh vì chiến tranh đã bị co lại nay được giãn ra.
Anh dắt xe ra cách đường và thục chân xuống tuyết đến đầu gối, anh chạy theo sát bên con ngựa ì ạch kéo, từng lúc nó lắc mạnh.
Anh lại bỏ áo ngoài ra làm việc.
Trong một chuyến về như vậy, anh gặp Ka-ti-u-cha đang chờ anh ở một hầm phân. Từ đằng xa, anh vung tay làm hiệu, chạy lại gần và mỉm cười.
- Người nào đã bắt mình xe phân đấy?
- Ông chủ tịch A-nít-xi-mốp. Anh trả lời không có một ý nghĩ gì xấu cả.
- Lão ta hơi mất trí rồi! - Ka-ti-u-cha nói giọng gay gắt. Con khỉ già. Chính hắn mới nên đi làm cái thứ việc đó! Anh đừng đi nữa.
- Bậy! Công việc thì phải làm chứ.
- Không nên nhận thế. Cần phải để mọi người tôn trọng mình ngay từ đầu. Đã ai thế này chưa, một đại úy đi xe phân!
- Nói mới lạ chứ! Anh đã làm rất nhiều việc thế này trước chiến tranh!
Nhưng Ka-ti-u-cha thấy chồng mình làm công việc ấy chị không chịu được. Hiểu biết rất ít về chồng (họ mới bắt đầu hiểu nhau), chị tự hỏi, quả thật chồng mình không cho việc làm phân là nhục nhã hay chồng mình vờ vịt ra như vậy?.
Mãi tối mịt Ma-la-khốp mới quay về nhà, người mệt nhoài và cóng đờ nhưng hài lòng.
On-ga chạy ra quấn quít:
- Chú Vát-xi-li, hôm nay cháu làm tính được một mình!
- Hoan hô! Chú vẫn bảo là cháu có thể đứng đầu lớp mà!
Ka-ti-u-cha bày súp ra bàn ngồi đối diện chồng. Hôm nay sao chị thấy ngày dài tệ! Nhiều lúc, về qua nhà chị hy vọng là Vát-xi-a, anh cũng vậy, cũng sẽ có ý nghĩ như thế. Thế mà anh lại đi ăn trưa không có chị. Chỉ độc có cái câu chuyện chớp nhoáng ngoài trại. Khi mà lòng chị có sự đòi hỏi, chị cứ muốn không bao giờ rời anh ra cả. Chị có thể ngồi thế này mà được ngắm nhìn anh và nghĩ thầm trong đáy lòng: “Anh yêu của em ơi, mình thật quý của em!”
Mắt nhìn mờ đi, vì bát súp ngon lành và vì mệt, Ma-la-khốp bắt gặp mắt vợ; quên ngay cái ngày đầy khó khăn và lạnh giá, anh chìa tay ra đặt lên vai chị. Ka-ti-u-cha dịu dàng cười, ghé sát vào người anh, nhắm nghỉển mắt lại và cảm thấy cả đôi môi nóng bỏng và khô nẻ của chồng áp lên chị. Mọi việc đều ổn cả, nếu không có cái chuyện chua xót kia cứ vướng vất trong tâm can chị, cái chuyện đáng bực mình về lão chủ tịch. Lão ta đối xử quá tệ với Vát-xi-li của chị. Vát-xi-li yêu quý của chị.
Ma-la-khốp đen nhẻm đi vì gió và mặt trời. Gò má càng nhô hẳn lên. Trước cái cổ gầy ngẳng, quả yết hầu lộ hẳn ra. Nhưng sức lực anh không hề bị giảm sút. Anh vẫn lăn xả vào việc với cả một sự hăm hở như trước. Một ngựa chưa đủ làm anh hài lòng, anh đi kiếm con thứ hai để tranh thủ thời gian. Xuân đã gần đến, cần phải chuyên chở hết phân ra đồng trước khi đường bị nghẽn.
Tháng hai qua, tháng ba tới.
Tháng ba! Lúc này trời mới cao rộng làm sao! Mặt trời càng ngày càng rực sáng. Không mấy lúc nữa mặt trời sẽ nung nấu mạnh mẽ, làm cho tuyết sẽ chảy tan, thành hàng ngàn ngọn suối. Từng mảng băng nhỏ, vỡ tách ra với những tiếng trong như tiếng bạc. Đường sá sẽ đen ngầu. Cây cối, sau khi kẽo kẹt các cành cứng đờ suốt mùa đông, nay sẽ chờ đón chào luồng gió ấm áp bằng tiếng vi vu nhè nhẹ. Quạ ở đâu sắp kéo về, và sẽ nhởn nhơ ngoài cánh đồng ra vẻ quan trọng, như thể để xem lại có gì thay đổi suốt thời gian chúng vắng bóng. Và đất sẽ bày ra trước mặt chúng, ấm áp và mềm mại.
Mỗi năm xuân đến là cũng đầy tươi vui, không một gợn phiền lụy.
Mỗi năm sông Vôn-ga tan băng giá là mỗi lần có một sự kiện mới cho nhân dân làng Xê-li-a-nít-xi.
Năm nay, băng lại tan vào đúng giữa ngày lễ Phục sinh. Nửa đêm giữa buổi lễ, trong khi chuông đang ngân lên thì nước tràn vào nhà, lênh láng chung quanh nhà thờ. Các cụ bà tự dưng thấy mình như bị tù hãm trên một hòn đảo. Trong buổi bình minh mát dịu, các cụ gào hết cả hơi gọi con cháu đến cứu. Một cơn gió mạnh và buốt từ ngoài sông Vôn-ga thổi vào. Những ai mà cầm ngọn bạch lạp thì không thể nào che nổi ngọn lửa chỉ chực tắt.
Anh em đưa các cụ về nhà, họ phát khùng, thề là sẽ đóng cửa nhà thờ lại, và đưa các cha cố đi mà chăn bò. Các cụ mím môi lại, càng đứng yên và thành kính. Ngày hôm sau, người ta phải đi thuyền trong các đường làng. Bọn con nít, ghép bè chơi trò thủy chiến. Sóng đẩy dầu hỏa do các tàu và sà lan vãi ra, các bà nội trợ bắt gặp chả biết như thế nào cũng cứ lấy về dự trữ.
Con sông Vôn-ga còn cứ cố tình làm rày thêm ba ngày mới chịu hàng phục, để lại tôm tép trên bờ các vườn rau.
Những băng tảng vẫn cứ trôi về sông. Hổn hển và lắc rắc chực tan vỡ, thân nó sướt vào hai bờ. Đến khoảng nào lòng sông hẹp quá thì từng tảng nguyên bị dạt lên các bãi cát và từng cục xam xám ấy nằm mãi rất lâu. Chỉ cần chân đẩy khẽ một cái là những tảng đó tung tóe ra thành hàng hà sa số những que kính nhỏ.
Đất đến giai đoạn phải làm và nông trường bắt đầu vào công việc cày bừa. Toán trưởng La-da-rép, bộ mặt nổi hẳn lên vì bị quả mìn nổ, giao cho Ma-la-khốp một chiếc cày. Đất bỏ hoang trong gần suốt thời kỳ chiến tranh, um lên một lần cỏ dày đặc, lúc này phải chịu hàng phục dưới những bàn tay lực lưỡng. Mới ngày đầu, Ma-la-khốp đã vượt mức gấp đôi.
- Cậu đại úy ấy khỏe thật! La-da-rép khoe với anh chị em nông trường.
Trong những giờ phút ngắn ngủi nghỉ tay, Ma-la-khốp hình như lần này mới nhận thấy có cái màu êm dịu xanh mượt của cỏ, nhìn thấy những quả đồi xa tít bên kia bờ sông Vôn-ga. Trên bầu trời xanh thẳm, đàn chim sơn ca rung lên tiếng hót cho anh nghe. Anh sống trong không khí thật hạnh phúc vì rằng hạnh phúc đã sẵn có trong người anh.
Sự lao động của anh tất nhiên không phải là bị bỏ qua không nhìn thấy. Trong một cuộc hội nghị của Đảng, Đu-ni-a Svét-ni-kô-va đã nhắc đến tên Ma-la-khốp với những lời khen ngợi, sau đó chị đề cử anh vào cấp ủy Đảng, lấy tư cách là người lao động nghiêm túc và cần cù.
Ngày hôm đó, Ka-ti-u-cha không còn biết tỏ thế nào cho hết lòng kính nể và sự khâm phục của chị đối với chồng. Đã có một lúc nào đó chị tự nghĩ là anh không có một tí tự trọng nào cả. Người ta bảo sao thì anh làm nấy. Bây giờ thì chị mới hiểu rằng sự việc đâu có phải là giản đơn như thế. Anh vào công tác lao động bằng những việc “hèn hạ” nhất và đùng một cái người ta bầu anh vào cấp ủy của Đảng. Rất có thể người ta đề bạt anh làm bí thư! Đến đây anh mới có thể thi thố hết tài năng của mình.
Sau bữa cơm chiều, hai người đi dạo quanh bờ sông. Đây là những giờ phút yêu quý nhất của họ. Những cuộc dạo chơi như thế nó có cái hương vị ngây ngất của cảm giác đầu tiên chứa chan trong tuổi trẻ.
Tay cầm tay, họ cùng bước ra khỏi nhà. Bọn chị em phụ nữ đi từng đoàn lũ và hát lên một điệu hát buồn buồn nói lên nỗi tình yêu đau khổ. Họ hát lên rất to, nhưng chắc là cũng chả tin gì vào bài hát đó.
Họ đã đi khỏi căn nhà cuối cùng của làng từ lâu, những giọng hát trẻ trung cũng đã im bặt. Trời lặng đi. Một giải tím nhạt của chiều tà nổi bật trên dòng sông Vôn-ga. Ma-la-khốp và Ka-ti-u-cha bước dọc theo bờ sông. Chị nắm chặt lấy tay anh, đột nhiên chị cất tiếng hát, đó là một việc xưa nay chị chưa từng làm. Giọng dịu dàng của chị lướt đi trong im lặng của trời chiều:
Từ ngoài khơi ấm áp
Chim nọ bay tới đây
Dừng lại trên cửa này
Nghỉ ngơi đôi cánh mỏi
Hãy nói đi chim đẹp hỡi
Cho ta hỏi đôi lời
Người yêu ta đâu tá?
Hay chàng quên ta rồi?
Trên mặt sông, sương mù càng phủ đặc. Ma-la-khốp tưởng chừng như giọng hát này từ đáy sông đưa lên, hơi não nuột và mơ màng. Anh bước chậm lại.
Chim đẹp kia nói rằng:
Đừng than thân, trách phận
Tình yêu xuân chưa sang
Tất là hạ phải tới.
Cất cánh, chim đẹp bay
Xa tít phía rừng cày
Nhưng lòng em thêm vững,
Niềm hy vọng tràn đầy.
Chính mình là anh tình lang mùa hạ đó - giọng Ka-ti-u-cha đầm ấm, tay chị nắm chặt lấy tay Ma-la-khốp rất trìu mến - Nếu anh hiểu được lòng em đang sung sướng đến thế nào, em không còn ước mong gì khác nữa... Hay nói cho đúng ra có lẽ có, một cái gì - Im lặng một tý, chị lại tiếp tục với một giọng nửa chừng - Trở thành anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được Huân chương Sao vàng và Huân chương Lê-nin... Em đã nghĩ tới việc này từ dạo mùa đông.
Họ ngồi trên rệ đê thoai thoải. Chỗ này, dòng sông Vôn-ga không rộng. Nhưng trên bờ bên kia người nom cũng chả to hơn một mũ que diêm. Dọc bờ sông là các thị trấn với các ống khói nhà máy, là làng mạc với những nhà chứa thóc lố nhố. Thật là khoan khoái được ngắm nhìn tất cả những cảnh vật ấy trong những giờ phút dịu dàng của chiều tà khi con sông Vôn-ga đang chìm vào cái cảnh mờ mờ yên tĩnh sau một ngày hoàn toàn đầy đủ.
Bóng tối càng dày đặc, con sông càng thêm đẹp. Trăng lên. Nước chỗ sát bờ mầu sâm sẫm, càng ra giữa càng biêng biếc, và xa xa là cả một mảng màu da cam do mặt trời buổi chiều xé mây, phản chiếu xuống. Mặt trăng rung rinh trên những gợn sóng màu da cam ấy. Một làn gió nhẹ rì rào trên các ngọn cỏ dọc bờ. Một con tàu đèn sáng rực đang ngược lên. Trời càng tối mịt. Nước lúc này đã lẫn với bờ bên kia. Không còn nhìn thấy gì nữa. Và bỗng dưng, giữa dòng sông có những vệt lửa đỏ tóe lên bầu trời thành tia sáng. Bất thần trong đêm tối một ngọn lửa lóe ra bật hiện một người. Bây giờ thì đã rõ: đó là những bè gỗ.
Rồi thì hè qua, thu tới nhẹ nhàng. Suốt trong thời gian đó, Ka-ti-u-cha sống rất căng thẳng. Chỉ chị mới bộc lộ được một lần sự ước mơ đó thôi, rồi tưởng chừng như chị đã quên khuấy nó đi. Nhưng thực ra có ngày nào là chị không nghĩ tới nó đâu. Chị không sao tự giải thích nổi cái gì nó thúc đẩy chị; phải chăng chị cũng thèm muốn có vinh quang để ngang hàng bằng Vát-xi-li, với những huân chương của anh và với cái cấp đại úy của anh; hay là đã đến lúc chị phải xắn tay áo lên và lao động một cách say sưa (vì hồi đó mỗi lần có hội nghị người ta cứ nhắc đến vấn đề phát triển chăn nuôi của vùng này)? Dù sao đi nữa, có lúc Ka-ti-u-cha hầu như quên cả nhà mình, nhiều việc đến nỗi chị đâm mải miết. Trước đây đã có mấy lần chị sang thăm nông trường quốc doanh chăn nuôi bên cạnh, bây giờ thi chị lại càng năng lui tới hơn nữa. Chị làm quen với tất cả những chị vắt sữa, với ông chuyên gia già về súc vật. Chị ngắm, chị lắng nghe, chị hỏi han. Như một con ong mật, chị thu nhặt tất cả những cái gì bổ ích. Giữa đêm hôm chị lần tới chỗ anh em chăn bò xem họ làm việc ra sao, chị gắt ỏm lên khi thấy đàn bò của chị đi vào gặm ở một bãi cỏ vàng úa. Chị không quản sức đi cắt cỏ non cho bò ăn, chị rắc muối vào cỏ, trộn các thứ để thành ra một thức ăn ngon lành cho súc vật. Chị tưới nước sôi vào rơm cỏ, băm nhỏ ra, vứt từng vừng khoai, từng nắm cà rốt vào cho các súc vật, cái lo lắng duy nhất của chị là làm sao cho tăng sức vắt lên. Và sức vắt đã tăng.
Thấy chị làm, các chị em vắt sữa khác cũng phải cố gắng theo. Cái chị to béo A-nít-xi-a thoạt đầu làu nhàu khó chịu, lúc sau cũng chú ý ngắm Ka-ti-u-cha lấy sữa, vắt, bóp, chăm nom nuôi nấng như thế nào, và dần dần cũng bị lôi cuốn vào.
Sức vắt càng tăng lên nữa, ông chủ tịch A-nít-xi-mốp hoan hỷ.
- Này chị có biết gì ở trại ngoài kia không đấy? - Ông ta nói với Đu-ni-a - Thôi, bây giờ cứ việc thi đua đi, việc đó là phần chị đấy.
Ma-la-khốp trách Ka-ti-u-cha và mắng yêu vợ:
- Em cứ đi biền biệt để giường chúng ta lạnh ngắt thế này.
- Chả sao đâu, Vát-xi-a ạ - Ka-ti-u-cha nở một nụ cười mệt mỏi: -Không còn bao thời gian nữa tới giêng, còn hai tháng nữa, thế là hết năm. Miễn là rét không làm sụt mức sữa xuống. Nhất là trại ta lại khó khăn chỗ sưởi...
Rồi cứ như thế chị hùng hục suốt ngày đêm vào công việc, về đến nhà là cứ mệt nhoài ra, gần như không ăn được nữa, và vừa chạm đầu vào gối là chị ngủ say như chết.
Chị đạt được ý nguyện. Hốc hác, tay nhấc lên không còn nổi nữa, chị lắng nghe tiếng văng vẳng trong đài phát thanh báo tin là chị được tặng danh hiệu Anh hùng lao động.
Bốn chị vắt sữa khác cũng được tặng thưởng cùng một lúc.
Sự vui mừng vừa mới qua thì đã có giấy triệu các tập chị lên ủy ban tỉnh.
- Tránh ra! Tránh ra! - Ma-la-khốp gào lên, say sưa phấn khởi vừa quất roi vào con ngựa đực Giê-rết chân trắng đẹp tuyệt. - Tránh ra! Tránh ra cho nữ anh hùng!
Ka-ti-u-cha cười, chan hòa nỗi sung sướng của mình với cái vui ồn ào của Vát-xi-li. Họ đánh xe như bay qua suốt đọc cánh đồng đầy tuyết phủ, hướng về chỗ đầy ánh sáng xa xa của thành phố lớn. Một chiếc xe ba ngựa lớn chạy theo sát họ. Mỗi lần xe xóc mạnh, mấy cô vắt sữa hét ầm lên rồi lại hát đến khản giọng, cảnh này trông cứ y như cảnh đám cưới.
Sau đó, Ma-la-khốp chờ Ka-ti-u-cha ngoài phố; lẽ ra người ta rất có thể mời anh vào nhưng mấy ông phụ trách lại quên không nghĩ ra, do đó Ma-la-khốp đứng chực ngoài với chiếc xe ngựa. Đã nhiều lúc anh phải nhảy xe xuống để vận động cho nóng người, hệt như những anh chàng đánh xe cóng rét. Dậm mạnh gót giày, mắt anh dõi nhìn về phía cánh cửa kính sáng và có diềm che kín. Rồi mắt anh lại quay lại nhìn về phía cổng đổ sộ mà anh mong mỏi vợ anh bước ra. Nhưng dạ hội kéo dài. Anh mới liên tưởng đến hồi ở mặt trận, lễ gắn huân chương làm nhanh lắm. Ở đây cái đó như không bao giờ chấm dứt.
Trong bầu trời trong trẻo và trống rỗng, mặt trăng tròn đang lên, hứa hẹn một đêm rét dữ.
Đột nhiên ầm ầm tiếng nhạc nổi bài quốc ca báo cho Ma-la-khốp là lễ đang kết thúc. Nhưng ít ra mãi một giờ đã qua, mới thấy Ka-ti-u-cha bước ra, bao nhiêu người còn vây quanh lấy chị. Chị chạy đến và vội vã bảo anh cứ đi về một mình vì ông bí thư tỉnh ủy Séc-nép sẽ dẫn chị về nông trường bằng xe riêng của ông cùng với hai chị vắt sữa xuất sắc nữa. Tức thì chị lại trở về chỗ con người cao lớn đi đôi ủng lông đã mở rộng sẵn cửa xe rồi.
Ma-la-khốp chờ cho đến khi xe đã mở máy rồi mới chậm rãi lên đường về nhà.
Anh lấy làm phật ý là Ka-ti-u-cha lại giục anh về một cách vô tình như thế. Nhưng liền sau đó anh tự nhủ mình là không nên giận chị. Chị muốn tận hưởng những cái được quyền hưởng trong ngày đó. Nào đâu phải là những sự việc dễ có luôn luôn. Các bạn tưởng tượng xem: một người sống một đời rất bình thường và không hề tự đánh giá mình một cách cao độ, đúng một cái được đưa lên tột đỉnh vinh quang. Không, tất cả cái đó là bình thường thôi. Mình mà đi giận là sai. Tất nhiên cái gì đang nhói vào lòng mình ấy đâu có đáng kể so với sự hân hoan đang phơi phới của Ka-ti-u-cha.
Đó là ý nghĩ của Ma-la-khốp lúc đánh xe quay về. Giữa đường, anh gặp xe ông bí thư. Đèn pha chói lóe cả mắt và buộc anh phải tránh vào bên rìa đường. Khi xe đi khỏi, đêm như càng đen kịt thêm nữa, nhưng mắt anh lại hết quáng ngay và lại nhìn thấy bóng xanh mờ mờ của bụi rậm trắng xóa tuyết. Xa xa, nhà cửa trong làng bắt đầu nhìn thấy rõ.
Ma-la-khốp thúc ngựa chạy mau.
Ka-ti-u-cha đã đứng đón chờ anh. Sao vàng và huân chương Lê-nin óng ánh trên ngực chị.
Chả còn kịp cất bỏ mọi thứ, Ma-la-khốp nhảy tới chỗ vợ cầm tay, quàng vào người và hôn lên mắt, cập mắt đã làm anh sung sướng đến phát điên lên.
- Cứ như trong một câu chuyện thần tiên - Ka-ti-u-cha vừa nói vừa nép vào người anh - Em sung sướng quá.
Những lời nói và những cử động đầy tin yêu đó làm cho Ma-la-khốp quên hết ngay cái gì hơi nhói vào lòng mình lúc nãy.