← Quay lại trang sách

- 7 -

Giữa trời tuyết tan, chị khởi hành đi Mạc-tư-khoa dự khóa họp Xô-viết tối cao. Sau khi tiễn chị ra ga, anh trở về thẳng nhà ngựa.

Anh thấy Ka-ra-mi-sép đứng cạnh con Giê-rết. Anh chàng huấn luyện này đang cọ lông, tắm rửa cho con ngựa giống và chuyện trò thân mật.

- Làm mày buồn hẳn? Thôi đi! Mày hay cáu lắm! May mà mày cho tao biết rõ tính nết. Thử xem hôm nào chạy thi, mày sẽ thấy tao làm mày cáu như thế nào! Hay là mày còn sợ cái gì? Ô, ồ kìa, đừng cắn tao! - Ka-ra-mi-sép cười - Biết rồi, ai chả biết mày có bộ răng tốt!

Nhìn thấy Ma-la-khốp, anh đi ra khỏi cãn chuồng:

- Thế nào chị ấy đi rồi à?

- Đi rồi!

- Chị ấy còn đi xa nữa - Vừa nói một cách cung kính, Ka-ra-mi-sép vừa nhặt mấy cái lông bờm dính vào bàn chải. - Chị ấy thăng nhanh thật! Người ta thường bảo: Có kẻ sinh ra được giờ tốt, thật chả phải ngoa.

- Cô ta đẻ vào giờ tốt thật không?

- Chắc đúng đấy.

- Còn cậu?

- Gì? Tôi ấy à?

- Cũng giờ tốt hử?

- Cậu tưởng thế! Bà cụ mình chả kịp trèo lên giường đã đẻ tõm mình ra đất rồi.

- Như Na-pô-lê-ông? - Ma-la-khốp cười khanh khách.

- Thật à? - Ka-ra-mi-sép nghi ngờ nhìn bạn - Na-pô-lê-ông cũng thế ư, mẹ ông ta cũng đẻ rơi à?

- Thì tớ đã nói thế mà lại.

- Ăn khớp thế thì lạ thật. Phải ghi nhớ lấy mới được!

Anh ta cười nổ cả họng, đến nỗi ngựa phải vẫy tai.

- Ra đây, chúng ta cho ngựa ra làm một cuốc. - Ma-la-khốp vừa nói vừa mở ngăn chuồng đầu.

Giê-rết nhảy vụt ra như gió làm anh suýt ngã, theo sát là con Hồng. Con Ngôi sao cũng hí lên một tiếng the thé, đòi ra. Giê-rết hí to đáp lại và lượn mấy vòng rộng. Đôi mắt tím bầm của nó cứ liếc hoài ra phía hàng rào mà ngoài kia là sự thênh thang tự do. Con Hồng lồng chồm lên thật mạnh, cất cao đầu, vun vút đuổi theo Giê-rết.

Ka-ra-mi-sép đi bên cạnh Ma-la-khốp, rất say sưa nhìn đàn ngựa nô giỡn. Anh nói:

- Không biết quả có đúng không, nhưng hôm qua ở quán, Xê-ri-ô-ghin khoe chính hắn ta là người đầu tiên nghĩ ra cái việc thành lập trại ngựa giống này. Hình như việc này hắn không nói với ai, hắn đã tự động dắt những ngựa cái đến nông trường quốc doanh lấy đực. Do đó mới có thêm Giê-rết, con Hồng và con Ô-bét. Theo lời hắn thì lúc này, tất nhiên Ma-la-khốp chả còn bị vướng trở gì.

- Mình cho là anh ta nói có lý - Với những con vật đẹp như vậy, đâu phải tự nhiên ở trên trời rơi xuống được.

- Anh ta nói có lý, cái đó thì đúng rồi, nhưng chết một việc là lại không ai biết vào đấy cả - Nét mặt Ka-ra-mi-sép hơi lộ vẻ bất bình và vuốt mấy sợi râu lưa thưa mọc theo lối Mông-cổ, khăng khăng không chịu mọc cong theo lối ghi-đông. Ma-la-khốp hỏi đùa:

- Cần lắm sao mà phải để mọi người biết?

- Mình nghĩ cần lắm chứ. Con người ta làm việc là cốt để mọi người biết xem người đó làm cái gì trong đời mình. Đây nhé, trường hợp Xê-ri-ô-ghin chẳng hạn. Anh ta đã nghĩ ra một việc có ích lợi cho nông trường, thế rồi người ta chẳng nhận ra anh ta là ai, cuối cùng vinh dự đó lại về cậu. Không. Cái cần thiết là phải để lại một dấu vết gì. Để người ta còn đọc, ngay dù đến hai mươi năm sau đi nữa, vẫn còn lại trên sổ ghi các việc làm và con người đã nghĩ ra việc đó. Như vậy mới thật là công bằng.

Ka-ra-mi-sép cứ tưởng là nói xong thì Ma-la-khốp sẽ cãi lại hoặc phật ý nữa. Rất kinh ngạc, anh lại thấy Ma-la-khốp đồng tình. Hơn thế nữa, anh lại còn khen ý kiến rất hay. Cần phải có ngay một thứ sổ vàng đó. Đúng thế, thời gian trôi qua đi, mọi sự vật sau này sẽ thay đổi. Cái làng cổ kính này, với những căn nhà gỗ, cửa kính bé tí tẹo và như thể mếu xệch đi, với những nhà trại mờ mờ tối sau này tất phải thay thế bằng một thị trấn lộng lẫy với những tòa nhà lớn như ở thành thị. Trong nhà có lò sưởi tự động, có hơi đốt (vĩnh biệt những lò đốt Nga!) và máy nước. Anh mở một vòi thề là nước tóe ra! Không có cần phải đi kín ở giếng nữa. Ngày đó, thế nào rồi chúng ta chả sẽ được thấy, không phải nghi hoặc gì. Lúc đó sẽ là lúc người ta hội họp nhau lại để nghiên cứu lịch sử của nông trường, và họ mới thấy rõ tất cả những người như chúng ta, mỗi người mỗi khía cạnh, chúng ta đã suy nghĩ và tìm tòi cho nông trường cứ tươi đẹp mãi lên.

- Nó sẽ cuốn sách ghi chép lại truyền thống của những con người có óc sáng tạo. Nó sẽ phát triển mãi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sau này đứa cháu sẽ hiểu là ông mình đã làm được thành công những thứ gì. Chẳng hạn nó sẽ biết rằng ông nội của mình là Pi-ốt Ni-cô-lai-ê-vít Ka-ra-mi-sép đã nghĩ ra cuốn sổ vàng ghi những người có sáng kiến.

Ma-la-khốp nói xong, mắt long lanh và cảm động.

Ka-ra-mi-sép nhìn anh, ngạc nhiên. Nhất là sự xúc cảm của Ma-la-khốp đạp vào óc anh rất nhiều. Tình cờ anh nhìn hai con ngựa và thấy con Hồng đang cúi cái cổ rất thanh lịch cọ vào cổ con Giê-rết, con này cũng đáp lại bằng một cử động âu yếm như thế. Ở trong cái đó có cái gì thật rất dễ thương, nhịp nhàng ăn khớp với niềm xúc động mà những lời nói của Ma-la-khốp đã khơi gợi lên trong lòng Ka-ra-mi-sép.

- Thú thực với cậu, Vát-xi-li Ni-cô-lai-ê-vít ạ, cậu đã làm rung động cả con người mình. Thâm tâm mình nào có bao giờ nghĩ tới những cái sau này sẽ có! Như là cậu đã mở cho mình một cái cửa sổ. Vả lại với công việc thế này, chả có thời giờ mà suy nghĩ. Công tác hàng ngày ngốn hết thì giờ chả còn đầu óc đâu nữa. Nhưng đôi lúc người ta ngẩng mặt lên, nhìn thây sao bầu trời cao rộng quá làm người ta ngợp lên. Nó thúc con người ta thèm muốn trở nên tốt đẹp hơn ngày nay. - Ka-ra-mi-sép dừng lại, vê râu mép, rồi phá lên cười: - Một cuốn sách vàng của người có sáng kiến! Cậu cho là mình đã nghĩ ra đấy ư? - Anh kéo tay áo Ma-la-khốp - Thế nhưng muốn cho công bằng phải ghi tên Xê-ri-ô-ghin vào đấy.

- Thì đúng thế, nhất định Xê-ri-ô-ghin phải có tên trong đó chứ!

Ma-la-khốp đáp và trong lòng lúc ấy thấy chứa chan thiện cảm với Ka-ra-mi-sép.

Ngay tối hôm đó, anh mang chuyện này nói với Đu-ni-a Svét-ni-kô-va.

- Tốt lắm. Tôi chả thấy gì trở ngại cả.

- Không trở ngại gì? Tôi thấy hình như chị chưa hiểu hằn lời tôi nói -Ma-la-khốp nổi nóng lên - Nghĩ mà xem, thật là hay biết bao nếu mỗi người trong cương vị của mình biết đi tìm tòi cái mới. Chị biết không, làm thế người ta sẽ biết phát huy sáng kiến ra. Các báo chí thường hay nhắc nhở là cần có những người sáng tạo, chứ không phải chỉ toàn những người thừa hành, là cái ý như thế đấy.

Trán Đu-ni-a nhăn lên. Chị là một phụ nữ không hay muốn sinh chuyện, chị có thể mủi lòng, xót xa trước những cái khổ của kẻ khác, làm như thế thì ai cũng được vừa lòng cả. Anh chị em ở nông trường đây đều quý nể chị. Chị là người được ghi lý lịch khá ở Đảng bộ huyện, vì các công việc người ta giao cho chị làm đúng tăm tắp. Cũng do thế mà đã bao nhiêu năm nay chị vẫn đứng đầu các đảng viên cộng sản ở nông trường này.

Mới đầu, chị tiếp thu ý kiến của Ma-la-khốp hơi nguyên tắc. Ở nông trường đã có một “Bảng danh dự”, một “Bảng thi đua”, một “Bảng chương trình thực hiện kế hoạch”, tại sao còn cần đến có một “Cuốn sổ vàng những người sáng kiến” chứ. Nhưng cuối cùng Ma-la-khốp cũng thuyết phục được, chị đâm ra say sưa với cái ý ấy, đến nỗi là không những chị nhận lời mà còn đích thân đi lên huyện mua cho được cuốn an-bum kếch sù có tranh vẽ và giao cho đứa con gái đầu lòng vốn chữ đẹp, kẻ những chữ lớn vào bìa, nói rõ sách này là sách gì, bắt đầu dùng từ ngày nào và thuộc của ai.

Danh sách ghi trước tiên trên đầu dòng: Huấn luyện viên Ka-ra-mi-sép, người đã có sáng kiến về cuốn sách, tiếp đến Xê-ri-ô-ghin, người đề xuất ra việc thành lập trại nuôi ngựa giống. Rồi đến E-ka-tê-ri-na Lu-kô-ni-na về sáng kiến thành lập một xưởng bơ và một xưởng bột khoai. Và cuối cùng là nữ đoàn viên thanh niên Cộng sản Vê-rét-ta-ghi-na đã có công thành lập một ban kịch.

Ngay mới đầu, người ta đã nhắc nhiều đến cuốn sách. Nhưng vì có nhiều người hay tò mò, Đu-ni-a muốn giữ cho nó được lâu bền, mới quyết định kẻ tên các người có sáng kiến lên một tấm bảng gỗ để bên cạnh văn phòng.

Cái mới bao giờ cũng hay cám dỗ, hơn nữa người Nga lại rất ranh mãnh. Ai cũng muốn nghĩ thêm được cái gì mới. Khi Ka-ti-u-cha trở về, danh sách đã thành gấp đôi.

Chị về tới nhà, vui hơn tết, đầu nặng trĩu những cảm xúc. Các cuộc gặp gỡ với những nhân vật có tiếng tăm, các tướng lĩnh, các nhà hàn lâm, các nhà văn, tràn ngập vào đầu chị. Chị bị choáng lộn lên vì thành phố Mạc-tư-khoa mà xưa nay chị chưa hề được nhìn thấy.

Nhưng sự kích động đó nhạt đi chút ít khi chị lại vùi đầu vào đời sống hàng ngày của nông trường, với bao nỗi khó khăn, với bao nhiêu sự eo xèo. Nào là những tiếng kêu của hai bà cụ được trợ cấp tuổi già mà anh phó Pi-mê-nốp không chịu phân phát khoai, cho đến trời cũng chẳng rõ tại sao. Nào là những sự than phiền của mấy ông toán trưởng vì lắm trường hợp nghỉ việc quá. Và bao nhiêu sự việc nữa. Đã thế lại còn cái “Bảng những người sáng kiến” đập ngay vào mắt chị.

Hai mắt lim dim, E-ka-tê-ri-na đứng ngây ra nhìn mãi. Chị bực là thấy mình lại bị xếp dưới Xê-ri-ô-ghin và Ka-ra-mi-sép, và rất buồn lại không thấy tên chồng mình trong đó.

- Thật đến nhố nhăng! - Tối đó chị về nói với chồng - Như thế là mình không thể có ý kiến lấy một mình được! Để một tên chăn ngựa vượt lên trên cả mình!

Nói xong chị vứt toẹt lên mặt bàn tờ báo huyện trong đó có bài ngợi khen sáng kiến của Ka-ra-mi-sép.

Ma-la-khốp rất đỗi ngạc nhiên thấy vợ mình lại nói những câu như vậy. Anh đã làm chị thất vọng chăng? Anh đã không làm xứng những kỳ vọng của chị chăng? Thật bực mình. Nhưng anh không nói năng gì cả và cứ việc đọc tiếp bài báo.

- Tại sao người ta không hề nhắc tới sáng kiến của em xây dựng nhà kính? - Chị đột nhiên hỏi anh.

- Người ta có nhắc đến đấy, nhưng anh đã gạt đi rồi. Chắc em cũng rõ tại sao.

- À ra thế? - E-ka-tê-ri-na chỉ đáp lại có vậy. Chị nghĩ thầm: “Thật quả mình không sao còn hiểu nổi hắn ta được nữa. Mình xoay cho hắn chân quản lý trại, thế mà hắn chả biết tỏ tài gì cả. Vào địa vị người khác thì người ta phải làm ra trò để cả vùng này biết mặt, biết tên. Còn hắn thì lại cứ sống trong bóng tối. Đã thế lại còn ngáng trở mình nữa”.

Từ hôm đó, đối với chồng, chị cảm thấy nếu không phải là một thất vọng thì ít ra cũng là một cái gì như lạnh nhạt. Chị thấy rằng Séc-nép và bao nhiêu người khác thì biết rõ chân giá trị của mình, nhưng ở nhà thì không! Không ngay ở cả chồng mình!

Từ đó, chị luôn luôn vắng mặt ở nhà. Mỗi tuần bao nhiêu giờ dành vào công tác đại biểu xô viết. Rồi cứ thì thụt đi N. và đi lên huyện nữa. Chị tới ngồi chễm chệ ở các cuộc hội nghị và các cuộc họp trọng thể. Người ta đến tìm chị để viết một cuốn sách nói về phương pháp quản lý nông trường. Chị nói, người ta ghi dùm cho chị, người ta đưa đến chị bản in rập thử để chị ký vào. Những nhà quay phim thời sự đến quay chị, và sau đó ít lâu, E-ka-tê-ri-na thấy mặt mình trên màn ảnh ở câu lạc bộ cùng với căn trại và các chị em vắt sữa. Tiếng nói nhiệt tình của người thuyết minh nói lên những thành tựu lớn lao đã thu được ở nông trường Xê-li-a-nít-xi.

Vậy thì có gì đáng lấy làm lạ là bao nhiêu thiếu sót của nông trường, tuy sờ sờ ra đấy nhưng nào có thấy được nêu ra trong các cuộc họp lẫn trên các báo chí? Người ta chỉ nhắc tới nhưng cái gì gọi là ưu điểm.

Nông trường Xê-li-a-nít-xi được liệt hẳn vào loại nông trường bất di bất dịch, chỉ dùng đưa ra làm kiểu mẫu cho các nơi khác, và độc vị dùng làm kiểu mẫu.

Tất cả những sự kiện đó chỉ tổ làm cho E-ka-tê-ri-na càng ngỡ là mình rất tài giỏi. Mọi sự đều tốt đẹp thế nhưng lại có Va-xi-li... những thành tích của E-ka-tê-ri-na không làm anh thỏa mãn tí nào. Anh luôn luôn khơi ra những thiếu sót và tranh luận một cách say sưa để tìm ra phương pháp sửa chữa. Anh chỉ muốn cái hay cho chị, đúng rồi, nhưng các cuộc họp phê phán đó chết một nỗi lại chỉ làm mất cả cái phơi phới nó đang tràn trề vào cuộc sống của E-ka-tê-ri-na. Cũng do vậy, mỗi lần đi ở các nơi về, chị càng thưa thớt hỏi han ý kiến chồng và chỉ thuật lại một cách cho xong chuyện những cái hay hay mà chị đã mắt thấy, tai nghe. Có khi đang nói, chị ngắt hẳn câu chuyện, như thể những chuyện ấy chỉ là chuyện vụn vặt, đối với chị không cần thiết, chỉ những vấn đề to lớn khác mới đáng chị quan tâm thôi. Thái độ dửng dưng của chị không phải là không làm cho Ma-la-khốp đâm lo ngại, anh bắt đầu thấy vợ lánh xa mình.

Vừa ở Mạc-tư-khoa được vài tháng về thì E-ka-tê-ri-na lại được triệu tập lên Thủ đô lại. Lên đến nơi chị báo tin về là chị đã được xung vào một phái đoàn đi Tơ-răng-các-pa-ti. Có một cái gì thật là thần tiên trong cuộc du hành trên không này. “Có lẽ đúng là cô ta sinh vào giờ tốt” Ma-la-khốp chợt nhớ tới lời nói của Ka-ra-mi-sép.

Trong khi Lu-kô-ni-na vắng nhà, việc quán xuyến nông trường giao cho anh phó Pi-mê-nốp, một con người buồn thảm và ít hoạt động tạm quyền thay mặt. Anh là một loại người sinh ra chỉ để làm phó cho bao nhiêu vị chủ tịch nối đuôi kế tiếp. Vị nào đến nhận chức cũng nghĩ rằng cần phải tống khứ Pi-mê-nốp đi, cho rằng anh ta là một tay của ông chủ tịch cũ. Họ chỉ giữ anh ta một chân một cách tạm bợ, chuyện là để mình thành thạo công tác cái đã. Nhưng rồi thời gian trôi qua, vị chủ tịch mới của nông trường lại nhận ra Pi-mê-nốp là người cẩn thận, thế là lại giữ anh lại. Kể ra thì họ cũng có lý, nhưng phải có một điều kiện: Pi-mê-nốp không làm việc gì mà không có mệnh lệnh. Người chấp hành tốt, nhưng không sáng kiến.

Trong thời gian E-ka-tê-ri-na đi vắng, anh ta chỉ suốt ngày ròng ở bàn giấy, khoán trắng công việc cho các toán trường. Những ai đến hỏi, anh liền đưa ra một cậu cửa miệng: “Chờ chù tịch về đã, sau đó sẽ hay”. Mãi rồi người ta cũng chán, mặc xác cho anh yên thân.

Sự luôn luôn vắng mặt của E-ka-tê-ri-na đã thành hậu quả. Nông trường không người lãnh đạo hết là một nông trường. Mọi người đều làm nhưng thiếu có người để điều hòa công việc. Thêm vào đó đã có những sự phiền phức trong việc sáp nhập thêm bộ phận mới. Người ta đưa súc vật từ làng Ri-binh-ska sang trại của Xê-li-a-nít-xi. Bò vắt hầu như không ra sữa. Chị quản lý Mác-kơ-la-kờ-va, vốn là người bình tĩnh nay cũng phải nổi xung lên khi nhìn thấy tổng số sữa vắt bị tụt xuống. Chị hạ lệnh cho anh chăn giao trả lại hết súc vật về chuồng cũ. Anh này tuân theo. Nhưng rơm cỏ lại để bên Xê-li-a-nít-xi. Anh phụ trách A-nát-ta-xi-ép đáng lý cho chuyển số rơm đó sang Ri-binh-ska lại đi phè phỡn - hàng ngày luôn luôn thấy anh có mặt tại tiệm rượu có bán thừa mứa Vốt-ka và bia thùng. Khi anh định trả hết rơm cho các chủ thì anh chả thấy còn rơm đâu nữa. Không còn cách gì khác, anh lại quay trở lại tiệm. Lúc này súc vật bên Ri-binh-ska gần như sắp chết đói. Ma-la-khốp thúc mãi mới lay được Pi-mê-nốp để hắn ra lệnh đưa bò quay trở lại Xê-li-a-nít-xi đồng thời phải dọa đuổi Mác-kơ-la-kờ-va nếu chị này từ chối không nhận bò về trại. Chị ta phải tuân theo vừa la ầm lên. Đến lượt các chị vắt sữa bên Ri-binh-ska phản đối. Ở nông trường bên kia nếu họ vắt mỗi bò được ba ngàn lít sữa là họ có tiền thưởng vì mức đặt ra có hai ngàn năm trăm lít. Ở đây mức đặt ở kế hoạch tăng hơn do đó họ bị truất mất tiền thưởng. Nói tóm lại chẳng bao lâu nông trường rối loạn cả lên làm cho Pi-mê-nốp sợ đến nỗi không dám thò mặt ra trại và anh sốt ruột như lửa đốt ngồi chờ E-ka-tê-ri-na trở về. Thế nhưng chị vẫn không thấy về. Ngoài đường phố Xê-li-a-nít-xi càng ngày càng nghe nhiều tiếng nghêu ngao của bọn say mềm. Số người đi trưa trễ càng tăng.

“Cô ta làm đến lắm người mong đợi!” Ma-la-khốp lo lắng suy nghĩ. Giữa tháng sáu thì chị về.

Giờ tàu còn rất lâu, Ma-la-khốp đã cùng On-ga ra ga rồi.

Xuân năm nay trong sáng và đầy ánh nắng. Thoạt đầu có mưa, sau là trời đẹp đẽ lên và đất nhão ra rất mau. Tối đến, sau buổi cày bừa đất bốc lên một thứ hơi ấm áp. Các cụ có tuổi ước đoán mùa này sẽ thu hoạch khá. Nhưng ở Xê-li-a-nít-xi, cày bừa vụ xuân lại chậm. Gắng gượng lắm, người ta người ta mới thực hiện được một chỉ số rất nghèo nàn. Mà có được thế lại cũng là nhờ có Đu-ni-a và Ma-la-khốp. Cứ tối đến, sau buổi làm, họ đi lướt một vòng đến từng khu vực, chuyện trò với những đảng viên nào không đạt được mức. Sau đó, những anh chị em ngoài đảng đuổi theo anh em đảng viên.

Ma-la-khốp rất phiền vì người ta không có tỏ vẻ gì tin cẩn anh. “Quả thực hắn ta phải mất công thế này là vì vợ hắn đấy”. Người ta xì xào. Thì đúng thế rồi, chị ta là đại biểu quốc hội mà lại! Và nếu anh chị em không dám từ chối làm thêm giờ là chỉ vì một lẽ họ sợ anh tâu nộp với bà chủ tịch! Mà chủ tịch nông trường là một nhân vật như thế nào! Bà ta có thể bắt đi làm gỗ, hoặc giả sắp xếp anh vào những công tác ít kiếm chác được nhất. Hơn hết là chả hơi đâu mà đi vận lấy những rủi ro vào người. Ma-la-khốp cũng đã cảm thấy rõ những cái đó. Đôi lúc anh tự nhủ là người ta chưa nhận thức ra giá trị của việc làm tập thể. Họ còn bị thu hút vào cái miếng riêng của cá nhân mình, dù nó rất nhỏ. Cũng như mọi lần, anh rất khổ tâm nhìn thấy họ chưa hiểu rõ hạnh phúc của mình do đâu mà ra. Những lúc như thế, anh chỉ muốn sẵn sàng làm tất cả mọi việc, cốt sao làm mở mắt họ ra.

Thiếu niên tiền phong, rồi thanh niên cộng sản và cuối cùng là đảng viên, Ma-la-khốp thường có thói quen tiếp thu những lời nói của Đảng như là một sự thật lớn lao nhất. Không bao giờ sự thật đó lại làm anh thất vọng cả. Hạnh phúc của anh là anh biết tín nhiệm Đảng. Anh không thể hiểu và không thể ưa được những kẻ họp nhau lại thành bè cánh riêng, mưu mô với nhau và chỉ nghĩ đến bản thân mình.

Ma-la-khốp sốt ruột liếc nhìn luôn chiếc đồng hồ quả lắc kếch sù của nhà ga. Cũng như mọi lần, khi chờ Ka-ti-u-cha lòng anh hồi hộp vui vui, với độc một ý nghĩ là vợ mình loáng nữa đây sẽ xuất hiện.

Anh ngó tìm On-ga, nhưng không thấy đâu cả. Chắc nó lẩn ra chơi ngoài sân ga. Nó quá thèm thuồng được nhìn thấy đầu máy, được chen các khách đi tàu, được nghe tiếng kèn của bác bẻ ghi.

Có tiếng gần đâu đây, gọi.

- Anh đánh xe ngựa!

Quay lại, Ma-la-khốp nhìn thấy A-nít-xi-mốp.

- Cậu mò làm gì ra đây thế?

- E-ka-rê-ri-na Rô-ma-nốp-na sắp về tới.

- Đúng cậu là anh đánh xe, cậu dám gọi vợ cậu là E-ka-tê-ri-na Rô-ma-nốp-na thì cậu to gan thật. - Nói xong A-nít-xi-mốp cười khẩy.

- Thế cậu ra làm gì đây?

- Dễ thường cái đó là việc mình, phỏng?

Hắn nấc nấc lên mấy cái rồi quay gót gắng gượng cho khỏi bị loạng choạng ngã.

Đám đông người đang ra khỏi ga. Ma-la-khốp kiễng chân trên bậc xe nhìn vào thì thấy E-ka-tê-ri-na đang tươi cười hoan hỉ. On-ga bám chặt lấy mẹ. Người ùn ùn đẩy hai mẹ con ra tới chỗ để xe ngựa ở ngoài(1).

Ma-la-khốp nhảy xuống đất. Bắt gặp mắt Ka-ti-u-cha, anh cười sung sướng.

- Anh có nghĩ đến em không đấy? - Vừa trao va-li cho chồng, E-ka-tê-ri-na vừa hỏi.

- Dĩ nhiên chứ. Nhớ đến nỗi nằm mơ cũng thấy em đấy.

- Chú Vát-xi-a ạ, mẹ cháu được đi máy bay! - Quay sang mẹ - Kể đi mẹ!

- Hãy nói cho mẹ nghe con có được khỏe không đã?

- Khỏe lắm! Kể đi, mẹ!

Họ đã qua ngoại ô tỉnh, các phố xá hai bên toàn nhà lụp sụp. Trong mấy thửa vườn, mấy người đang xới. Dọc theo hàng rào, cỏ non mượt. Trời đang giữa tháng sáu, một tháng sáu tươi vui chứa chan ánh nắng.

- Ngồi máy bay đến là lạ! - E-ka-tơ-ri-na nói rất vui vẻ - Mây trắng dưới người mình như thể là tuyết mùa đông. Mặt trời chiếu đến lóe cả mắt. Rồi bỗng tự dưng mây biến mất, và dưới kia là đất tít xa xa. Mênh mông như không bao giờ hết nữa. Nhà cửa thì nhỏ xíu và đường cái như thể những đường gân xanh trên tay. Xe cộ chạy lăng xăng ở trên như kiến bò. Có lúc, mây có vẻ lại như dựng đứng lên rồi đi về một phía khác. Nghĩa là không thể tưởng tượng được. Anh đã đi máy bay lần nào chưa?

- Chưa!

Ma-la-khốp trả lời. Xe tiến vào trong một con đường giữa đồng ruộng.

Chị ngắm nhìn chồng. Cũng như mọi lần, anh chải chuốt, râu ria nhẵn nhụi và vận chiếc sơ-mi sạch tinh.

Nhưng lần này, hình như đối với chị, anh chả nghĩa lý gì, hầu như trong con người anh chỉ độc nguyên một thứ sạch sẽ đó là hết.

Vì rằng lúc này óc chị còn đang tơ tưởng đến cảnh tượng đón tiếp chị ở Tờ-răng-các-pa-ti, đến căn phòng ngủ ở khách sạn, trong đó có chỗ tắm mà chị sử dụng những hai lần một ngày. Gớm sao chị lại ưa tắm nước nóng đến thế.

- Nữa đi, mẹ, nữa đi!

- Như thế là mẹ đi máy bay đấy - E-ka-tê-ri-na trả lời xong rồi thở dài -Mới đầu mẹ còn lo lo, sau quen dần đi. Lúc quay về mẹ chả còn có nghĩ tới nữa.

- Mình có thích Tờ-răng-các-pa-ti không? - Ma-la-khốp vừa quất roi vào con ngựa già Ra-vanh, vừa hỏi vợ - Anh có ở qua xứ đó hồi chiến tranh.

- Nhiều núi lắm, nhiều nhà nhỏ thật xinh xắn. Nhưng nói chung, không có gì đặc biệt. Người ta lấy xe đưa bọn chúng em đi khắp để chỉ cho xem đầy đủ. Và dĩ nhiên người ta đón tiếp nồng nhiệt lắm - Chị có vẻ hài lòng, quan trọng, lại lộ ra một chút tự mãn. Quay sang On-ga - Còn về phần con, mẹ mang về cho con một bộ quần áo đan. - Nói xong chị ôm con, hôn.

“Một bộ quần áo đan, như là đi chợ về” - Ma-la-khốp nghĩ bụng.

- Ở nhà có gì lạ không?

- Ở nhà ấy à? Không chạy lắm, Ka-ti-u-cha ạ. Chỉ vừa mới gieo được mạ xong đúng thời gian. Em vừa đi vắng đã bị chật chưỡng ngay. Đáng lẽ em không nên bỏ nông trường mà đi.

Xe chạy qua đồng ruộng. Hai bên đường, ruộng đất của nông trường bên cạnh chạy dài tít tắp. Lúa mùa đông sáng rực lên màu xanh rờn. Chị em phụ nữ đang cúi rạp xuống mà làm. Một làn gió nhẹ và mát dịu thổi từ đằng sông Vôn-ga lại.

- Tại sao vậy! Không trông mong vào ai được nữa à?

- Vì còn nhiều việc phải làm quá. Mình rõ đấy. Đến bao nhiêu là lỗ hổng phải bít lại!

- Không có lý! - E-ka-tê-ri-na ngắt ngang câu chuyện. Thôi bây giờ đã về, em sẽ cho vào khuôn phép cả. Nhưng Vát-xi-a ạ, rồi đây vẫn phải đi, công tác bắt buộc; và cũng đừng làm cuộc gặp mặt của chúng ta lúc này mất vui đi. Hay là có lẽ anh muốn làm em phật ý chăng?

- Có đâu thế... Mình cứ về ngó coi tình hình nông trường một chút mà xem, vừa cắm cây xuống, cỏ đã trùm lên rồi. Bọn nam giới thì uống vô tội vạ. Rốt cuộc thì em là người chịu trách nhiệm chứ ai nữa.

- Những thứ cỏ dại ấy à? To chuyện thật! Cứ rẫy nó đi là xong. Còn về phần bọn nam giới, thì thật từ lúc sinh ra trái đất là họ cũng vẫn uống rồi. Vả lại, thôi, anh đừng có nói đến những thứ đó nữa mà! - Chị cắt đứt, lộ hẳn ra vẻ mặt khó chịu.

Về đến làng, E-ka-tê-ri-na chỉ lướt qua nhà một tý rồi ra ngay bàn giấy. Vừa thoáng nhìn thấy, Pi-mê-nốp thở một cái đánh phào nhẹ nhõm, và vui vẻ trao lại cho chị chiếc ghế chủ tịch.

- Thế nào, vắng tôi anh ra sao? - Chị vừa hỏi vừa bỏ khăn quàng lụa ra.

- Chị biết không, không làm sao mà lĩnh nổi rơm cỏ về. Người ta hứa hẹn ngay từ hôm chị đi cơ đây.

Thật ra không phải dễ dàng gì mà có được rơm cỏ thêm cho súc vật. Nông trường đã nhận đủ theo kế hoạch phân phối, nhưng rơm cỏ thiếu. Trước khi E-ka-tê-ri-na đi, do có Séc-nép can thiệp, người ta hứa phân phối thêm cho một số phụ nữa. Vậy là chỉ có việc chuyên trở về.

- Quá thứ đàn bà!

Tiếng E-ka-tê-ri-na rít lên. Chị gọi điện thoại lên tỉnh ủy. Séc-nép trả lời, hỏi lại chị. Chị nói: “Đâu còn chuyện nghỉ ngơi, đồng chí Xéc-gây Xê-vát-ti-a-nô-vít ạ, tôi cũng không còn cả thì giờ mà rửa mặt từ lúc xuống tàu đến giờ nữa.” Ông ta nói cái gì nữa làm cho chị bật cười. Pi-mê-nốp nhìn chị, ngạc nhiên, sao lại có người dám ăn nói tự nhiên trước những ông to như thế. Còn về phía anh, anh thấy khoan khoái là những ông to đó không có chú ý gì đến anh cả.

Nói xong với Séc-nép, E-ka-tê-ri-na trở lại nghiêm nghị. Chị ra lệnh cho Pi-mê-nốp triệu tập các toán trưởng sáng ngày mai đến họp.

Chuông điện thoại lại leng keng. Đó là I-va-nốp gọi chị. Anh này chính là người chậm giao rơm cho nông trường. Giọng chị nói có vẻ nửa đùa nhưng bao hàm cả vẻ uy lực của mình.

- Thôi vào việc, Ni-cô-lai I-va-nô-vít ạ. - Làm theo đúng như tôi bảo, nếu không, gặp là tôi sẽ vặt râu đi! Được cái là nó không rậm lắm - Chị đặt máy xuống, bảo Pi-mê-nốp: Lấy về ngay đây cho tôi một xe vận tải, và mau lên!

Lại một lần nữa, Pi-mê-nốp phục lăn E-ka-tê-ri-na đã giải quyết công việc sao mà dễ dàng thế.

Sau đó Lu-kô-ni-na còn nán lại một giờ nữa ở trụ sở. Chị duyệt lại các giấy tờ, xem lại sổ sách, nhìn lại các bản dự toán, ký các bản quyết toán. Chị sắp sửa đứng dậy thì Đu-ni-a chạy vào.

- Mình chạy như con rồ khi nghe thấy tin cô về - Đu-ni-a vừa nói vừa thờ hồng hộc. Chị ngồi xuống đối diện với E-ka-tê-ri-na - Đi vừa rồi bình an vô sự chứ?

- Không đến nỗi. Chỉ tội là khi tôi đi vắng, các cô ở nhà suýt phá tôi về việc gieo mạ! Tôi ở trên đó thì nhắc tên các cô, khen ngợi các cô, còn các cô? Các cô giết tôi!

Lại dây nói gọi.

- Lu-kô-ni-na đây. Hội nghị à? Được, tôi sẽ đến ngay. - Chị đứng dậy.-Đấy, Đu-ni-a ạ, tôi cũng muốn kể cho cô nghe cái gì nhưng việc vội quá.

- Cô hiểu đấy, tôi đến đây không phải chỉ là để nghe chuyện không thôi. Đu-ni-a lộ vẻ bực bội - Phải nói tới chuyện nông trường, trong khi cô vắng nhà công việc lung tung cả...

E-ka-tê-ri-na nhìn chĩa vào đôi mắt đen nhỏ nheo lên của Đu-ni-a:

- Lúc nào cô cũng vắng mặt. Hết hội nghị lại đến lượt bao nhiêu thứ khác, nông trường bỏ như đứa con hoang.

- Nói bậy! Nếu nông trường tồi thì trên sẽ quở chúng ta chứ đâu lại nói tốt!

- Nhưng tại sao trên lại chỉ nói toàn là tốt, Ka-ti-u-cha? Theo thói quen người ta chỉ nhắc đến căn trại và nhà sản xuất bơ. Một nông trường tiền tiến, như người ta vẫn nói. Thử xem tiền tiến chỗ nào? Đây này, gieo mạ may mà vừa kịp! Kỷ luật ra cái gì nữa...

- Tôi không hiểu do đâu mà các người cứ hoảng hốt cả lên thế. Chồng tôi cũng nhai nhải với tôi như thế! Dễ thường Xéc-gây Xê-vát-ti-a-nô-vít Séc-nép không thông hiểu bằng các người phỏng? Hơn hết là cô cứ đi chăm lo gà của cô đi. Theo báo cáo thì nó chả đẻ đái gì cả: sửa soạn xe, mai tôi sẽ cho đi lấy gà con bên nông trường quốc doanh về.

Chị đi ra không thèm một lời chào.

Buổi chiều, trời ấm áp. Mặt trời lặng lẽ lặn dần xuống phía bên kia sông Vôn-ga. Súc vật đi ăn kéo về. Bò rống lên khi bước vào chuồng. Cừu be rinh lên trước cửa hàng rào đóng chặt. Bao tiếng kêu lo ngại và thê thảm đó trước đây vẫn là những tiếng quen thuộc, lúc này chỉ tổ làm cho E-ka-tê-ri-na thêm cáu kỉnh. Mọi cái đối với chị đều rất thân thiết, chị rất yêu mến và đồng thời cái đó lúc này chị lại chỉ thấy dửng dưng. Sau khi đi Mạc-tư-khoa và sau khi tham quan Tờ-răng-các-pa-ti về, sau cuộc sống lớn lao và tuyệt diệu ấy, bây giờ tất cả cái gì ở nông trường chị thấy hầu như đều ti tiện cả. Những lời nói của Đu-ni-a, của chồng như trêu chọc chị. Chị chắc rõ rằng những con người đó đang ở cái bậc thang cuối cùng xã hội (mà lỗi không phải là tại chị), còn chị thì đã leo lên đến đỉnh rồi. Những cái đối với chị rành rành ra như thế làm sao họ lại không hiểu được nhỉ? Nếu Séc-nép nói chị là một cục vàng, tức là ông đã đánh giá đúng về tài năng của chị. Thế thì một con mụ như thể Đu-ni-a Svét-ni-kơ-va dám lấy quyển hành gì mà động chạm vào cái oai quyền của chị? Còn Vát-xi-li nữa! Đáng lý hãnh diện về vợ, anh chàng ta lại muốn vợ ở nhà! “Làm như người ta chả hiểu gì về cái việc người ta làm ấy!”.

Chị cương quyết quay về nhà. Bỗng lại thay đổi ý kiến, chị đi sang phía nhà ngựa. Anh huấn luyện viên Ka-ra-mi-sép đang ngồi trên chiếc xe độc mã. Con Giê-rết lượn vòng, tay cương cùa Ka-ra-mi-sép điều khiển rất khéo léo. Ma-la-khốp thì đang lăm lăm trong tay chiếc đồng hồ, tính từng phút. Nhìn bước đi hiên ngang của con Giê-rết, E-ka-tê-ri-na bảo chồng:

- Cố gắng làm thế nào mang lại danh dự cho chúng ta trong cuộc đua này.

- Chả ngại cho con Giê-rết, nó thì cừ lắm rồi. Nhưng Ngôi sao thì chạy không được dài hơi.

- Vậy thì đừng cho ra. Nếu không, đưa ngựa tồi ra thiên hạ sẽ cười em đấy.

- Em có những thứ lý luận thật kỳ dị - Ma-la-khốp ngạc nhiên đáp lại - Làm như thể ở đây chúng tôi không biết chú ý cái chuyện ấy!

- Ồ, các anh thì chả ai hỏi. Chính Lu-kô-ni-na là cần phải chú trọng sự thắng lợi đó. Đúng thế đấy, Vát-xi-a ạ.

Ka-ra-mi-sép dừng ngựa trước mặt họ, Giê-rết se sẽ rùng mình.

- Thế nào được chứ?

Ka-ra-mi-sép vừa nhảy xuống, vừa hỏi. Lúc này Ma-la-khốp mới nhớ ra mình quên tính giờ. Bực mình, anh nhét chiếc đồng hồ vào túi.

- Cậu cho nó đi dạo một vòng rồi cho nó vào chuồng.

Khi anh quay lại thì Ka-ti-u-cha đã bỏ đi rồi.

Từ ngày đó, quan hệ giữa hai người trở nên lạnh lùng. Mỗi lần Ma-la-khốp gắng tạo ra một không khí thuận hòa thì Lu-kô-ni-na Rô-ma-nốp-na ngắt ngang không thèm nghe. Chị đã có riêng một vũ trụ của chị, chỉ riêng chị biết và chị cấm bặt anh xâm phạm tới. Nhưng, một đôi khi đầu óc được thư thái đôi chút chị ôm ghì lấy anh vào người một cách say sưa như những ngày êm đẹp xưa kia, đôi mắt xanh ấy loé sáng lên âu yếm nhìn anh. Trong chốc lát chị lại quên hết mọi cái ngăn cách giữa hai người và chị lại là Ka-ti-u-cha của anh, là Ka-ti-u-cha mà anh đã yêu quý và vẫn còn yêu quý.

Chính vì như vậy anh càng thêm đau khổ. Anh bị ray rứt vào một ý nghĩ, cái ý nghĩ là thế tất một ngày kia không sao tránh khỏi, tất cả mọi người, chứ không chỉ riêng anh thôi, sẽ thấy rõ sự cách biệt giữa cái vinh quang sáng lòe của vợ mình với cái nông trường không lấy gì đáng gọi đặc biệt.

E-ka-tê-ri-na thì vẫn cứ nay đây mai đó, hết cuộc họp này lại sang hội nghị khác. Chị chỉ toàn là chủ tọa. Đôi khi chị lên nói, cầm giấy đọc những lời đã viết sẵn, những lời rất xa lạ với chị. Và sau đó, những lời nói ấy được đăng trên báo và đọc trên đài phát thanh. Còn Séc-nép thì ông vẫn giản dị khoác tay chị đi bách bộ trong những giờ phút giải lao. Anh em lao động xuất sắc xúm xít quanh ông, ông đi dạo giữa một đám toàn những anh hùng, những người ngực đầy huân chương. Các nhà nhiếp ảnh chạy vội đến, giơ máy lên chụp, ảnh đó đăng lên các báo. Hai cuộc sống đã tràn vào con người E-ka-tê-ri-na. Một thứ đẹp biết bao, như chị tưởng, rất được chiêm ngưỡng. Một thứ khác thì toàn là lo âu dằn vặt, những sự phiền rày không bao giờ hết vì đó là lúc mà mọi người cần đến chị một cái gì, đó là lúc mà mỗi người cảm thấy mình có quyền đòi hỏi, và chị đành phải khuất phục trước những sự đòi hỏi đó.

Công bằng mà xét cho E-ka-tê-ri-na thì cương vị cao đã giúp chị đứng vững trước mọi trách nhiệm. Đại biểu Xô-viết, anh hùng lao động, chủ tịch, tất cả những cái đó có từng giá trị riêng của nó trước con mắt những nhà lãnh đạo địa phương, và thảng hoặc mà càn thêm cho trại một số rơm cỏ phụ - cỏ rơm ở nông trường lại thường thiếu - người ta cung cấp ngay. Những “xưởng đỡ đầu” đã cất dựng nhà kính và đạt ống dẫn nước không tính tiền. Ông giám đốc Trạm máy kéo lại gửi tới nông trường Xê-li-a-nít-xi những chiếc máy tốt nhất. Không có gì dễ dàng bằng là bất cứ lúc nào E-ka-tê-ri-na cũng gọi được điện thoại cho Séc-nép và ngay tức khắc ông truyền lệnh cho người này, hoặc kẻ khác, “Người này, kẻ khác” làm ngay những cái mà nông trường của Lu-kô-ni-na cần dùng tới.

- Thật là một sự ăn bám! - Ma-la-khốp phải thốt lên kêu với Đu-ni-a - Tự mình phải có đủ rơm cho mình chứ đâu lại ngửa tay đi xin. Còn như cái việc cơ khí hóa nông trường, chúng ta phải tự làm lấy, chẳng phải hỏi xin những nhà đỡ đầu.

Nhưng Đu-ni-a lại không đồng ý. Chị rất hài lòng về thế lực của E-ka-tê-ri-na và coi như vậy là rất tốt.

- Chị cứ mà nhìn xem, anh em nam giới thì không còn muốn làm việc. Chỉ còn toàn là phụ nữ. Dễ thường lại phải ra huy động lần nữa trên tỉnh về gặt giúp cho kịp à? Chỉ vì người ta trông chờ quá nhiều vào kẻ khác.

- Thôi im đi đừng có khéo chuyện! - Đu-ni-a thở dài không hiểu rõ rằng Ma-la-khốp có thực khéo chuyện hay không. - Ka-ti-u-cha và anh ở với nhau có êm thắm không đấy nào?

- Cô ấy lúc nào cũng là bận. Rồi thì đi luôn luôn.

Anh trả lời một cách lững lờ và bỏ đi rất khó chịu. Càng ngày anh càng khổ não.

Nhưng rồi cũng có lúc E-ka-tê-ri-na phải suy nghĩ. Chị muốn tìm hiểu lời chồng mình nói. Bằng con mắt nhìn khác, chị chăm chú đến nông trường, vòng quanh xem xét các trại. Một vài việc chị không vừa ý, nhưng nhìn chung, mọi việc vẫn chạy, cái khá, cái kém. Thế là chị lại càng thấy bất bình với Vát-xi-li. Chị nghĩ: "Hắn cần cái gì chứ? Dễ thường hắn cho ta là không nghĩ gì đến hắn đấy hẳn? Nhưng mà này Vát-xi-li ạ, phải đâu là tôi không vui sướng nếu anh cũng được ngang hàng như tôi? Này, cứ huấn luyện ngựa cho trội lên có lẽ người ta cũng nghĩ đến anh đấy. Ừ, mà không đâu. Về ngựa không thôi người ta không có cấp danh hiệu Anh hùng đâu. Hay anh muốn ra đồng làm việc? Chiếm kỷ lục về thu hoạch đi... Cũng không được. Đất đai ở đây khó mà ăn lắm..."

- Còn anh, làm thế nào để anh tiến được? Giúp ý kiến em.

- Tại sao vậy? Như thế này là anh đã khá dễ chịu rồi. - Lời Ma-la-khốp nóng nảy đáp lại - Tôi chỉ nghĩ đến cô thôi.

- Lại đến tôi! - Tiếng nói của E-ka-tê-ri-na có vẻ cáu lên. - Tôi cũng chẳng hiểu anh muốn gì tôi nữa!

- Sự vinh quang của em không xứng đáng. Chả lẽ em lại không hiểu điều đó! Anh muốn người ta trọng em.

- Quả là những lời nói vẩn vơ. Làm như thiên hạ không trọng gì tôi ấy!

- Anh muốn cắt nghĩa cho em tại sao...

- Chẳng có cái gì phải cắt nghĩa cả. Tôi thừa hiểu cả rồi.

- Không. Em không hiểu!

- Thật thế à? Nếu tôi không hiểu, tôi đâu lại là đại biểu quốc hội!

Thốt ra lời nói đó xong, như để cắt đứt, chị đi thẳng.

Sự quan hệ giản dị và trong sạch giữa hai người thế là hết. Hết những buổi dạo quanh trên bờ Vôn-ga. Ma-la-khốp càng lo ngại cho E-ka-tê-ri-na bao nhiêu thì chị càng đâm ngờ vực và lạnh nhạt với anh bấy nhiêu, chỉ cần xoè một que diêm vào đống thuốc pháo là nổ tung lên.

Cuộc đua bắt đầu từ hồi mười một giờ trưa từ sân quần ngựa thành phố. Người ta tập trung tất cả những ngựa tinh này của các trại nuôi trong tỉnh về. Nông trường quốc doanh, một đơn vị bộ đội và năm đoàn viên nông trường tập thể anh đua nhau giành lấy huy chương.

Công chúng đến xem đông đảo. Những nhà lãnh đạo trong tỉnh ngồi ở giữa. Xa xa, người ta thấy bóng dáng phục phịch của đồng chí Séc-nép, áo màu nhạt và mũ đen. Trẻ em ngồi xuống cỏ dọc theo đường đua.

Trời báo hiệu đẹp. Từng mảng mây mỏng manh trôi nhẹ nhàng, in trên mặt đất một bóng mờ mờ. Ka-ra-mi-sép nghe thấy rõ tiếng rì rầm của khán giả, hỗn độn và trầm trầm như sóng vỗ. Con Hồng thở phì sốt ruột.

- Thôi yên nào! Yên nào!

Ka-ra-mi-sép vừa nói vừa vỗ về cái lưng bóng nhẫy của con ngựa. Anh cũng thế, hơi xúc động - xúc động vì sốt ruột nhưng không thể tin là mình thua được. Anh không trông mong gì vào con Hồng và con O-bét. Nhưng con Giê-rết thì nhất định là phải mang thắng lợi về cho nông trường.

Cuộc diễu quanh bắt đầu. Ngựa chạy theo dọc vạch của vòng khoanh vàng. Con Hồng ngoắt đầu rồi phi một mạch lanh lẹ và chắc chắn. Ka-ra-mi-sép diễu qua khán đài. Liếc nhìn thấy bộ mặt căng thẳng của Ma-la-khốp, anh vội ra hiệu cho Ma-la-khốp như có nghĩa: “Được đấy. Mọi việc đều ổn.”

Thế mà nó lại không ổn tí nào. Mới vòng đầu, con Hồng đã bị con màu xám có chấm trắng của quân đội vượt mất ngay. Bụng sát đất, dáng chạy khỏe, con này đã vượt một quãng xa. Trên khán đài, người ta chế giễu con Hồng.

E-ka-tê-ri-na vò nát chiếc khăn trong tay; quên bẵng cả chiếc que kem đang chảy trên các kẽ ngón, ngắm nhìn một cách đau khổ cả sự tủi nhục của nông trường. Ma-la-khốp lúc này ngồi cạnh vợ.

Vòng đua bỏ trống một lát. Chuông lại kêu. Một đôi nữa vút tiến ra. E-ka-tê-ri-na ngắm nhìn không thiết tha. Đến đôi sau cũng vậy. Nhưng mới thoạt thấy Ngôi sao xuất hiện, chị như nghẹn thở. Chị không còn rời con mắt để theo dõi một cách say sưa lúc thì nhìn con ngựa, lúc thì nhìn theo Ka-ra-mi-sép ngồi hơi cúi mình ra phía trước như thường lệ.

Ngôi sao bỗng vượt lên. Nhưng Ka-ra-mi-sép ghìm nó lại. Bây giờ nó chạy đều đều như lướt trên cát.

Địch thủ của nông trường “Mồng một tháng Năm” diễu qua khán đại, lốp xe độc mã kêu rít lên. Người điều khiển là một ông già nhỏ nhắn đẩu bạc. Người ta gọi ông trên khán đài, nhưng ông ta không ngoảnh lại. Vòng thứ hai, ông ta vẫn bình tĩnh như thế, nhưng cự ly cứ giảm dần giữa con ngựa cái hơi nặng nề của ông với Ngôi sao. E-ka-tê-ri-na nhìn chồng giận dữ. Ma-la-khốp rất bình tĩnh nhấm nháp một que kem. Ngôi sao tụt lại sau.

E-ka-tê-ri-na không chịu được nữa, lấy tay giật mạnh chồng:

- Để người ta cười vào mặt tôi, phỏng?

Trên khán đài, những người đi hỗ trợ cho nông trường “Mồng một tháng Năm” đang hoan hô sự chiến thắng của ông già nhỏ nhắn kia, ông giơ tay vẫy chào.

E-ka-tê-ri-na tiến nhanh ra lối cửa. Chị gọi anh lái xe:

- Đi, Mi-ti-a.

- Chị đã về rồi cơ à?

Thấy thế, ông chủ tịch nông trường "Mồng một tháng Năm" một người phục phịch vận chiếc áo da, vội hỏi:

- E-ka-tê-ri-na Rô-ma-nốp-na! - Chị quay lại, ông bí thư huyện gọi. - Đồng chí Séc-nép cần hỏi chị.

“Mình sắp bị “sạt” đây!” Chị lật đật chạy đến chỗ ông bí thư, lo lắng. Séc-nép chỉ cho chị một chỗ bỏ trống, cạnh ông. Ông hỏi một cách ráo hoảnh:

- Sao chị lại tham gia cuộc đua này?

E-ka-tê-ri-na im.

- Từ nay về sau, tôi ưa được hỏi ý kiến đã. Không nên làm tổn hại đến thanh danh của chị. Chị có còn ngựa ghi tên nữa không?

- Còn!

- Xóa đi!

- Vâng. - Chị chạy vội ra chỗ chồng.

- Không chạy nữa! - Tiếng chị nghẹn lên vì giận dữ và tức tối - Lập tức rút ngay Giê-rết ra!

- Rút Giê-rết? Sao không nghĩ! Chúng ta trông cậy chính là ở nó.

- Tôi đã bảo là rút nó ra! - Sự cáu tức làm ngầu cả màu xanh đôi mắt chị.

- Kìa, Ka-ti-u-cha, anh cam đoan là giải nhất...

- Thôi!

E-ka-tê-ri-na nhảy vội xuống bực và chạy qua bãi. Nhìn Ka-ra-mi-sép, chị ra lệnh:

- Cho hết tất cả ngựa về!

- Có hỏa hoạn à?

- Không nói lôi thôi!

- Nhưng hãy khoan một lát đã nào, chúng ta sẽ quyết mang thắng lợi về - Ka-ra-mi-sép rất xúc động.

- Thôi! Đừng có giờ cái trò sỉ nhục ấy ra thêm nữa! Về ngay!

Ka-ra-mi-sép đành làu bàu mấy câu thô tục rồi đi ra phía Giê-rết.

Về đến nhà, một tấn náo kịch xảy ra.

- Anh cố tình làm ra như vậy! - Tiếng E-ka-tê-ri-na phát khóc lên - Để làm nhục tôi. Tôi thừa hiểu cái đó là do anh bất mãn, vì tôi được nhắc lên chức cao mà!

- Nghĩ cho kỹ lời cô nói! - Ma-la-khốp giận tái mặt đi.

- Tôi đã nghĩ kỹ và tôi đã nhìn thấy rõ! Cám ơn Vát-xi-a! Không bao giờ tôi quên chuyện này được! Tình yêu của anh như thế đấy hẳn?

- Ka-ti-a!

- Cái gì? Ka-ti-a?

Trong cơn giận dữ vô lý, rất có thể cô ta gán cho mình đủ thứ tiếng. Anh hiểu thế lắm. Anh cũng hiểu rằng sau này vợ anh sẽ hổ thẹn. Để tránh cái đó, anh bỏ đi ra. Rất lâu, anh thơ thẩn trên dọc sông, tư lự. Đúng thế, những cái đó quá phức tạp. Phải cần tìm cách gì để vợ mình hiểu là vợ mình sai. Không có thể cứ tiếp tục sống như thế này mãi. Phấn đấu vì vợ, vì mối tình chung thủy của anh, anh quyết định lên gặp Séc-nép.

Chú thích:

(1) Gọi tên gia đình ra là thân tình lắm. Ý A-nít-xi-mốp muốn mỉa mai Ma-la-khốp là vợ có danh vọng thế mà to gan gọi như vậy. (L.N.D.)