← Quay lại trang sách

- 12 -

Tư ơi! Có ở nhà hông?

Không nghe tiếng trả lời, bác Hai gọi lớn hơn:

-Tư ơi! Bộ đi vắng rồi hả?

Tiếng "dạ" rất to từ trong nhà vang ra làm ông bật cười khan.

Cánh cửa mở ra liền ngay sau đó. Tư còn cầm cái bàn chải đánh răng trên tay, đi như chạy ra cổng, đầu tóc bù xù vì chưa kịp chải.

Bác Hai hỏi:

-Bộ hồi tối thức khuya lắm sao mà giờ nầy mới dậy?

Tư cười, gãi đầu:

-Gần sáng con mới đi ngủ lận. Hôm nay bác nghĩ chạy xe hả?

Bác Hai đáp:

-Bác được người ta bao, đi từ sáng sớm tới giờ nầy mới về.

Tư mời:

-Mời Bác vô nhà ngồi chơi, uống nước. Để cháu dắt xe vô cho.

Bác Hai lắc đầu:

-Thôi khỏi. Bác phải đem cái nầy về nhà cho bả làm liền.

Bác đưa cái bọc ni lông trong đó có một con cá lóc khá to lên cho Tư thấy.

Tư hỏi:

-Bác mua hay câu dính nó vậy?

Bác Hai cười khà khà:

-Bác chở một ông khách về Long An thăm bạn. Họ cho ổng cá, ổng chưa về nhà còn ở khách sạn, không tiện nấu ăn nên cho lại bác.

Rồi ông mời Tư:

-Chiều nay lại nhà bác ăn cà ri cá nghe.

Tư ngạc nhiên:

-Bộ cá lóc cũng nấu cà ri được sao bác?

-Được chớ. Con cá lóc coi vậy mà dễ sai, dễ khiến hơn hết thảy. Nó là diễn viên số một mà, đóng vai nào cũng giỏi, cũng ngon lành.

Rồi bác bật mấy ngón tay lên kể:

-Canh chua nè, nướng trui nè, hấp nè, chiên nè, nấu cháo nè...Nấu cà ri ngon chỉ thua cá trạch lấu chút xíu thôi hà! Tại cái thịt không dai bằng.

Bác bổ xung thêm:

-Sở trường của nó là món gì cháu biết hông?

Tư hỏi:

-Món gì vậy bác?

Bác Hai gật gù:

-Kho. Món kho nào xài nó cũng ngon!

Rồi bác lại bật ngón cái lên một lần nữa:

-Kho tiêu, kho hành ớt, kho xả, kho tương, kho mắm...

Chắc còn nữa nhưng bác làm biếng dùng đến bàn tay kia nên dừng tại đó.

Tư nói:

-Cháu thấy nó không đóng cái vai xào.

Bác Hai cự liền:

-Vậy là cháu chưa ăn cái món cá lóc xào cần ống phải hông?

Tư lại hỏi:

-Món đó ra làm sao vậy bác?

Hai mắt ngời ngời, bác Hai kể:

-Cá lóc làm cho sạch rồi lạng lấy hai miếng thịt ở hai bên lườn, bỏ đầu và xương. Cắt mỏng chừng hai, ba li, ướp tiêu củ hành, đường, nước mắm vô cho thấm. Bắc chảo chờ thiệt nóng rồi bỏ vô một muỗng mỡ, một tép tỏi đập giập. Để lửa to, chảo nóng hực rồi vớt cá cho vô liền, nước ướp chừa lại. Xào cho cá hơi vàng vàng, cho rau cần vô, cọng trước lá sau, nêm rồi nhắc xuống liền. Món nầy coi vậy mà làm hơi khó, cá phải còn nguyên miếng không bị bể mới ngon, mới khéo. Bởi vậy lúc xào cháu không được xài đũa, phải dùng cái sạn có mép thiệt mỏng, xúc lên rồi lật qua nhẹ nhẹ.

Tư định hỏi nữa, nhưng bác xua tay:

-Bác phải về liền kẽo nó chết ngợp, hết ngon.

Bác khởi động cho chiếc xe nổ phành phạch rồi vừa gài số vừa dặn thêm lần nữa:

-Nhớ tới nghe hông! Mà đừng có mua bia như hôm bữa. Lần nầy mà đem đổi lấy đường, bột ngọt nữa chắc lỗ nhiều hơn mà còn bị họ chửi nữa quá!

Tư cười, gật đầu đáp:

-Dạ! Cháu nhớ.

Chờ bác Hai đi một đổi, Tư mới quay lưng định đi vào nhà, lòng nghe dào dạt một niềm vui.

Thấy ông phát thơ đi ngang qua, Tư gọi:

-Bác phát thơ!

Ông lắc đầu, không chờ Tư hỏi mà nói:

-Hôm nay cháu không có thơ đâu!

Tư lại kêu:

-Bánh tét!

Ổng thắng xe cái két rồi cười và hỏi:

-Mấy cái?

Tư đưa hai ngón tay rồi nói:

-Bác chờ chút xíu để cháu vô lấy tiền.

Ông ta hỏi vói theo:

-Nhưn đậu hay chuối?

-Một đậu, một chuối.

Trả tiền xong Tư hỏi:

-Mấy giờ rồi bác?

Ông đùa:

-Hơn hồi nãy một giờ.

Rồi chỉnh lại liền:

-Hơn hai giờ rồi đó cháu!

Tư buộc miệng:

-Trời đất!

Nghe Tư kêu trời ông liền hỏi:

-Làm cái gì mà giựt mình dữ vậy?

Tư xòe tay ra đếm rồi nói:

-Cháu ngủ liền một mạch gần tám tiếng đồng hồ.

Ông nói bằng giọng ao ước:

-Ngủ được như vậy là tiên đó cháu. Bác bây giờ một đêm ngủ có bốn, nhiều lắm là năm tiếng. Nghe người ta nói ngồi thiền hay bị ngủ gục, bác cũng bắt chước. Ngủ đâu không thấy mà đau lưng, đau vai quá mạng. Thế là bác bỏ ngang luôn. Thây kệ tới đâu thì tới.

Tư an ủi:

-Vậy là bác sống nhiều gấp rưởi người ta rồi.

Ông cười:

-Ờ hén!

Hai cái bánh tét loại nhỏ nhứt nên chẳng an ủi được cái bao tử chút nào. Tư định thay đồ ra quán dì Ba nhưng khi đếm lại tiền thì bỏ cái ý định đó. Đành uống nước cầm cự tới chiều.

Giặt xong thau quần áo dơ dồn lại của cả tuần là đã đến bốn giờ. Tư tắm gội thay đồ rồi đến nhà bác Hai, không quên lấy chai dầu con ó của mẹ học trò mới tặng, bỏ theo túi để đem tặng lại cho bác gái. Hổm rày hai vợ chồng bác Hai cứ rủ Tư đến ăn cơm hoài. Bác Hai gái biết Tư ngại nên nói: "Cháu tới ăn cơm chung, bác mừng và mang ơn nhiều lắm! Có cháu nói chuyện, ổng vui miệng nên ăn cơm cũng nhiều hơn một chút. Đừng có bày đặt mua cái nầy cái kia đem lại nghe hông! Đem cái bụng lép tới là được rồi, nói không nghe là hai bác giận đó!"

Tư biết bác ấy nói thật lòng nhưng chẳng lẽ lần nào đi ăn chực cũng chỉ xách theo hai nải chuối- nói theo kiểu của bác Hai trai- thì kỳ quá!

Đến trước cửa Tư đã nghe mùi cà ri và nước cốt dừa bay ra khiến cái bụng kéo biểu tình dữ dội. Chưa kịp gọi bác Hai ra mở cổng, đã nghe tiếng ông gọi:

-Dắt xe vào nhà rồi đi vô bếp luôn đi cháu!

Tư "dạ" một tiếng to, vói tay mở cái móc gài cổng rồi dắt xe vào nhà.

Dựng xe kế chiếc Hon đa xong Tư đi xâm xâm vào bếp luôn. Vợ chồng bác Hai đang đứng chụm đầu, cùng nhìn vào cái nồi bắc trên bếp.

Bác gái lấy cái vá đang nằm úp mặt vào cái tô để cạnh bên nồi, bà nhúng nó vào nồi rồi đưa cái vá sát vào miệng ông và nói:

-Ông nêm giùm tui coi vừa ăn chưa.

Bác trai thổi phù phù, hớp một miếng, chép chép miệng rồi nói:

-Hết sẩy!

Cái cảnh ấy khiến Tư xúc động quá, đứng chết trân một chỗ.

Bác Hai quay lại thấy Tư đang nhìn mình đăm đăm thì hơi mắc cỡ bèn hấp tấp nói:

-Ngồi đi, ngồi đi! Sắp ăn được rồi.

Tư lấy miếng giẻ lau xuất thân từ cái áo thun ba lỗ tuy đã rách nhưng vẫn còn trắng ngần của bác Hai, để lau cái bàn ăn vốn đã rất sạch.

Chàng hỏi:

-Mình ăn bằng tô hay chén vậy bác?

Bác gái trả lời:

-Ăn bằng tô.

Tư mở sóng chén, lấy ra ba cái tô, cầm cái khăn vải mùng treo trên ống đũa lau từng cái cho sạch. Bày chúng lên bàn rồi lau tiếp ba đôi đũa, ba cái muỗng.

Bác gái cho rau ghém gồm bắp chuối xắt thật nhuyễn, giá sống, rau húng cây...lót dưới đáy từng tô, rồi gấp một đũa to bún để lên trên. Bác cho cái vá vào nồi cà ri, khuấy một vòng rồi múc một đầy vá cho vào. Những miếng cá vàng ươm, đã được bỏ hết xương, xé dọc theo xớ. Chúng to và dài cỡ ngón tay nằm chồng lên nhau trên mặt tô bún. Bác xếp lên một nhúm hành thái sợi, đã ngâm nước nên cong cong, rối rối. Trên cùng là mấy lát ớt sừng trâu đỏ au thái mỏng.

Tô bún trông quá hấp dẫn với bốn màu trắng, xanh, vàng, đỏ. Thơm phưng phức khiến Tư cố kìm mà không thể không nuốt vì nước miếng ứa đầy nhóc miệng.

Bác gái đưa cho chồng tô bún đầu tiên, hối:

-Ông ăn liền đi, ruột cá ăn nóng mới ngon!

Rồi lật đật bưng chén nước mắm với chén ớt xanh để trước mặt ông.

Kế tiếp bác múc một tô đầy tú hụ những cá là cá đưa cho chàng khiến Tư phát ngại. Đã vậy bác còn nói:

-Cháu phải ăn hai tô mới được đó!

Tư đùa:

-Cháu định xin bác ba tô.

Bác Hai cười sảng khoái:

-Cứ việc!

Đây là món bún cà ri cá Tư được ăn lần đầu. Mùi vị rất đặc biệt khiến Tư phải trầm trồ:

-Bún nầy lạ và rất ngon. Ở Sài gòn hình như chưa thấy có chỗ bán.

Bác gái giải thích:

-Món nầy quê bác gọi là bún Nước Kèn. Nó với bún Nhâm, bún Nước Lèo là của người Cam Pu Chia. Chỗ nào họ ở nhiều mới có.

Tư hỏi:

-Nó có dễ nấu hông bác? Ngoài cá ra là thứ gì nữa hả bác?

Bác gái gật đầu:

-Dễ ợt! Nó đơn giản lắm, chỉ cần cá với dừa khô thôi hà! Cháu làm cá cho thật sạch, để trong rỗ thưa cho ráo nước. Dừa nạo xong đem vắt lấy nước cốt, nước giảo để riêng. Luộc cá trong nước giảo dừa với ba tép xả đập giập để khử mùi tanh của cá. Cá chín, cháu vớt ra, gỡ bỏ hết xương. Bắt chảo lên bếp, đợi chảo nóng cho chút mỡ vào phi tỏi, củ hành cho thơm rồi cho bột cà ri, rắc một muỗng đường cho nó có màu đẹp rồi cho cá vô. Xào hơi săn săn thì chắt liền nước luộc cá ban nảy vào. Chờ nước sắc xuống một chút cháu cho nước cốt dừa vào rồi tắt bếp.

Tư lắc đầu, nói:

-Món nầy ngon, dễ nấu nhưng chắc cháu không làm được vì đâu có biết nạo dừa.

Bác gái cười:

-Đừng có lo, ngoài chợ người ta có bán dừa nạo sẵn mà.

Bác Hai chợt hỏi:

-Cháu có ăn ruột cá lóc chưa?

Tư đáp:

-Dạ chưa.

Gấp cái ruột cá trong tô mình qua cho Tư, bác bảo:

-Cháu nhai thử coi, thích thì ăn, không thì trả lại. Đừng có vị bụng bác, ráng mà nuốt thì uổng lắm! Cái chuyện khẩu vị nầy rất khó nói. Nó y như tôn giáo vậy đó! Kẻ ưa, người kỵ. Ai ai cũng cho món mình thích là ngon nhứt, tôn giáo mình theo là tốt nhứt, nên hay cãi vã liên tu bất tận.

Tư chấm chùm ruột đã bị xẻ tanh banh đó vào chén nước mắm ớt rồi đưa vô miệng nhai. Nó vừa giòn, vừa béo, vừa cay, mùi vị khá đặc biệt. Nuốt xong Tư gật đầu:

-Ngon hết xẩy, hèn gì bác gái nhường cho bác.

Bác gái đính chính:

-Bác đâu có nhường, tại ăn hổng được nên nhờ ổng ăn giùm.

Bác gái có ý chờ sẵn, thấy Tư ăn vừa xong thì giựt liền cái tô để làm thêm nữa.

Tư nói:

-Bác cho cháu lưng lưng thôi, đừng múc đầy cháu ăn hổng nổi uổng lắm!

Bác trai gật đầu, ông nói:

-Cháu nó nói đúng đó bà! Cái lần đầu mà ăn bắt tới ngán là vô tình giết chết tươi cái món đó luôn. Phải có cái cảm giác thiếu thiếu mới còn muốn gặp lại nó nữa.

Ăn xong Tư không năn nỉ để được bác gái cho phụ rửa chén như lần đầu nữa. Bởi biết chắc chắn bác chẳng chịu nhường cái đặc quyền đó cho ai.

Bác Hai buộc chàng nằm xuống cái võng giăng song song bên cạnh cái võng của ông. Hai bác cháu vừa no phè nên chỉ nói những câu chuyện vui vui tếu tếu, không mang những chủ đề rắc rối, khó tiêu, những màu sắc ảm đạm cùng những tệ nạn nhức nhối khác.

Tư bỗng nhớ ra, móc túi đưa chai dầu xanh còn mới nguyên cho bác, rồi nói:

-Bác làm ơn đưa cho bác gái chai dầu nầy giùm cháu.

Thấy bác ngần ngừ chàng bịa:

-Má đứa học trò nầy có người bà con bên Mỹ gửi đồ "viện trợ" dài dài. Hôm trước chỉ mới cho cháu một chai, xài chưa hết nay lại cho nữa. Bác nói bác gái nhận giùm, để cháu không xài kịp nó bay hơi uổng lắm!

Bác Hai cười nói:

-Không hiểu tại sao thiên hạ khoái xài cái thứ dầu nầy dữ quá! Ai cũng kè kè trong túi một chai. Hổng biết họ thích cái mùi của nó thiệt hông hay chỉ để lòe thiên hạ.

Chờ Tư về bác Hai mới đưa chai dầu cho vợ. Ông nói:

-Tặng cho bà nè!

Bác gái hỏi:

-Ở đâu mà ông có? Ai cho vậy?

Ông trả lời:

-Mua tặng hổng được sao? Để bà xức cho ấm cái mỏ ác.

Bà "xì" một tiếng dài thòng, nói:

-Ông mà chịu bỏ tiền mua chai dầu nầy chắc tui cùi xức móng luôn quá!

Ông bèn hỏi:

-Vậy bà nói thử coi ai cho?

Bà đáp, hơi trù trừ:

-Chắc cái ông cho con cá lóc, phải hông? Chớ mình đâu có quen ai giàu và thân đến nổi tặng cho mình một chai dầu mắc tiền mà còn nguyên như vầy!

Ông cười hóm hỉnh, lắc đầu:

-Trật lấc, cho bà nói thêm một lần nữa đó!

Giọng bà mang vẻ ngờ vực:

-Hổng lẽ của thằng cháu Tư?

Ông gật đầu:

-Đúng đó, nó sợ bà hổng chịu lấy nên nhờ tui đưa giùm.

Nét rạng rỡ trên mặt biến mất, bà cằn nhằn:

-Ông nhận làm chi? Tiền dạy học của nó đâu có được bao nhiêu. Thầy, cô giáo có bằng cấp hẳn hoi, dạy trường nhà nước đàng hoàng mà còn chạy gạo mệt cầm canh. Họ có cả mấy trăm đứa học trò mà còn không đủ sống. Nó chỉ dạy cho mấy đứa học trò lèo tèo, chắc chắn là nghèo sặc máu. Mình mà nhận một lần, mai mốt nó phải ráng mua thứ khác đem tới nữa. Cực cái lòng nó quá!

Ông nói:

-Món nầy của má học trò cho chớ nó đâu có mua. Mà bà cũng ngộ, người ta được tặng quà thì mừng, thì cảm động, thì cười, còn bà thì bức rức, cằn nhằn.

Bà nói:

-Ai mà không thích được tặng quà. Tui cảm động dữ lắm đó chớ, nhưng hổng biết tại làm sao mà nghe cái ruột nó xót quá chừng!

Ông cắt nghĩa:

-Chắc tại bà coi nó như con của mình, lại là cái đứa nghèo nhứt nên không nỡ xài tiền của nó đó mà! Tui nói vậy đâu bà rà lại cái bụng coi có đúng hông?

Bà suy nghĩ hồi lâu rồi nói:

-Chắc kiếp trước tui với nó là mẹ con hay sao mà kiếp nầy mới gặp là thấy thương liền. Ông có nhớ cái hôm nhà mình cùng nó ăn mắm kho với nhau hông? Thấy nó cắm cúi nhai mà tui nghe thương đứt ruột, y như bị bỏ đói ba ngày. Ông hổng thấy chớ bữa đó tui đâu có ăn cho no. Nhai nuốt cầm chừng để nó đừng có ngại thôi hà!

Ông trợn mắt nhìn bà rồi hỏi lại:

-Sao bà biết tui hổng thấy? Ngay cái tia nhìn đầu tiên là tui biết bà với nó hợp nhau rồi. Vợ chồng mình có nhiều thứ giống nhau lắm. Tui để ý hể tui thương ai là bà cũng thương, tui ghét ai thì bà cũng ghét. Bà coi nó như con thì tui cũng vậy. Cái cuốc xe về quê rồi lên liền đó, gặp người khác là tui đâu có đi. Hôm bữa nó nhét hai trăm vô túi năn nỉ tui lấy trọn mà tui đâu có chịu, nhứt định chỉ lấy đủ tiền xăng mà thôi!

Tưởng được khen, ngờ đâu ông lại bị bà cằn nhằn:

-Có năm ba chục mà lấy làm chi cho nó mất cái tình, cái...

Ông ngắt lời:

-Ai mà hổng biết, nhưng làm quá coi hổng được, nó ngại trốn biệt thì sao?

Ông liếc bà một cái rồi nói:

-Hèn gì ông bà mình hay ví lòng cha, lòng mẹ thương con y như lòng sông: "Bình thiên không bình địa". Bà biết câu đó có ý nói cái gì hông?

Bà cự nự:

-Hở hở là xổ nho. Ai mà biết? Sao hổng chịu nói tiếng của mình cho ai cũng hiểu? Tui ghét hạng nhứt là mấy cái bà móng tay tô đỏ, cái miệng ăn nước mắm mà nói chuyện với cái dân lao động, mua gánh, bán bưng như tụi tui cứ chêm tiếng tây, tiếng u vô lùm xùm. Nghe điếc con ráy mà hổng hiểu cái gì ráo trọi!

Ông cười thẹn, gãi đầu:

-Tại quen miệng thôi bà ơi! Ai mà thèm khoe khoang cho mỏi miệng mà còn bị ghét. Bà có thấy con sông nào cũng có cái mặt phẳng lì, bằng chan hông?

Bà gật:

-Thấy chớ sao không. Rồi sao?

Ông không trả lời mà hỏi tiếp:

-Còn cái đáy, bà thấy nó có bằng phẳng hông?

Bà lắc đầu:

-Chỗ lồi, chỗ lõm chớ làm sao bằng được. Mà ăn nhậu gì tới cái chuyện...

Ông lại ngắt lời:

-Tại tụi mình có một đứa thôi nên bà không biết. Ba má tui có một bầy con nên tui để ý thấy ổng bả thương con Út nhiều nhứt. Không phải tại nó là con gái Út. Chỉ bởi nó nghèo hơn hết nên ổng bả lén bù xớt cho nó nhiều gấp mấy lần mấy đứa khác. Cũng như cái đáy sông vậy, chỗ nào có hố chỗ đó sâu hơn, nước nhiều hơn, lớ quớ bước hụt cẳng dám chết chìm chớ đừng tưởng...

Ông nói tiếp:

-Tui thấy thằng cháu Tư nầy mồ côi, lại mất cha từ nhỏ nên thương lắm! Muốn nhận nó làm con để vong hồn con Nho được thanh thản. Nó thấy mình có người an ủi mới chịu đi đầu thai. Tui tính thăm dò từ từ coi cậu ta có giống mình hông rồi mới bàn với bà...

Bà cướp lời:

-Cái ý tui cũng y chang như ông.

Chỉ tai lên đôi bông đang đeo, bà nói:

-Tui mà được đóng vai má chồng, đi cưới cái cô gì ở quê mình cho nó là tui mừng lắm luôn. Tui để dành đôi bông tiền điếu nầy với hai chiếc xuyến má cho lúc đi cưới tui cho vợ nó.

Bà dừng lại để nén nổi xúc động rồi nói tiếp:

- Nghĩ tới lúc đó tui nôn quá ông ơi! Mình ngồi sui phải nói chuyện theo cái kiểu rào qua đón lại, đưa tới đẩy lui...chắc mắc cười lắm ông hén!

Nhớ tới gương mặt đằng đằng sát khí của thầy ba Cương khi chạm trán với mình hôm trước, ông bỗng nhìn bà, cười mỉm chi rồi nói:

-Chưa chắc!

Rồi ông nói tiếp:

-Tui sợ lúc đó bà má chồng té xỉu mới ngộ!

Đúng ba tháng từ ngày đưa Ý về quê, Tư không nhận được lá thơ nào của nàng hết!

Nỗi mong đợi không còn khiến chàng khoắt khoải như những ngày đầu, nhưng cũng không lặn mất. Tư bỗng hình thành một thói quen, chẳng thể ngồi yên ở nhà trong những buổi chiều trời mưa. Chàng phải trùm áo, xách xe đạp chạy lòng vòng: ra ngỏ, quẹo qua xóm đình, rồi quay trở về...

Mối tình dành cho Ý vẫn âm ỉ trong lòng. Như biển, như sông chẳng bao giờ lặng sóng. Đôi lúc lao xao, gờn gợn như ru. Khi lại nổi giận đùng đùng, gào thét, vật vã, làm mình làm mẩy...

Có những đêm cơn nhớ dâng lên ào ạt trong lòng, nhân dáng và những kỷ niệm về Ý tái hiện rõ ràng như khúc phim chiếu chậm. Thế là Tư lại lấy chiếc cặp tóc trong túi ra, đưa lên mũi để cố tìm một mùi tóc đã bay đi xa lắm. Hoặc ngồi dậy, tốc mùng lật đật chui ra lấy giấy, bút ghi lại lập tức những đường nét đang lung linh trong đầu.

Bây giờ Tư đã hiểu tại sao cuộc đời của các danh họa luôn ba chìm bảy nổi. Chính những bước thăng trầm, nghiệt ngã của cuộc sống- như những mũi dao khoét sâu vào đáy lòng- khiến cái đau, cái buồn trong họ thăng hoa thành nghệ thuật. Đôi khi Tư còn cho là họ cố dấn thân vào nỗi cô đơn, sầu muộn để tìm chất liệu cho sản phẩm của mình.

Cái buồn thất tình, nếu chẳng đủ sức giết được ta, chúng sẽ mang lại rất nhiều xúc cảm và ở một số người được trời thương, còn ban cho đôi phần thi vị. Có lẽ nhờ vậy mà những bức ảnh chàng vẽ, càng về sau càng làm chàng nhồn nhột ở sống lưng khi xem lại.

Con người ta (có lẽ các sinh vật khác cũng vậy), hể tập trung vào mặt nầy thì lơ là vào các thứ khác. Điều đó giải thích vì sao các nghệ nhân có chữ "sĩ" đính kèm thường có phong cách thiếu chỉnh chu (điều nầy loại trừ ca sĩ, bác sĩ, dược sĩ...những nhân sĩ mà nghề nghiệp khiến họ không thể sống lẻ loi).

Tư không hề muốn học đòi theo các biệt nhân ấy, nhưng rõ ràng lúc sau nầy, cái ăn, cái mặc của chàng không còn tươm tất như lúc trước, nó không còn quá quan trọng đối với Tư như ngày xưa nữa.

Gần đây Tư cũng ít ra quán dì Ba. Nếu không có sự tiếp tế của của bác Hai chắc chàng đã gầy còm như xác ve sầu từ lâu. Cách vài ngày, bác Hai lại kéo Tư qua nhà ông ăn cơm. Khi thì xách cái gà mên bốn ngăn đem qua cho Tư đủ món. Điều đó chẳng những giúp cơ thể Tư không hao hụt mà còn vực dậy cái tinh thần đang trên đà suy sụp của chàng. Nhờ vậy mà cuộc sống của chàng dần cân bằng, bình thường trở lại.

Càng ngày Tư càng đâm ra ghiền những món ăn của bác gái, ghiền cái tính trào phúng của bác trai, ghiền luôn hơi ấm trong căn nhà ấy. Càng ngày chàng càng gắn bó với họ hơn, nhất là đối với bà.

Những cử chỉ chăm sóc kín đáo, những lời nói mộc mạc nhưng đầy ấp thương yêu, những chén cơm bới đầy vun, những ly nước chanh của bà khiến Tư nhớ má mình quá đỗi...Nhất là những ly nước chanh!

Ôi! những ly nước chanh...chúng hình như đều do những bàn tay nhỏ nhắn của mẹ, chị, vợ, bạn gái... làm ra. Họ ít khi dành nó cho bản thân, chỉ để cho con, chồng, người yêu...mát lòng thêm sức. Từ ngày má mất đi rồi Tư chưa uống lại nước chanh, cho nên một lần cầm ly nước chanh bác gái đưa cho Tư bỗng thốt câu "cám ơn má!".

Cái tiếng "má" thốt ra một cách bất ngờ ấy đã khiến cả hai cùng bùi ngùi. Bác gái bỗng lặng người rồi quay đi để giấu hai giọt lệ sắp rơi.

Một hôm Tư đi dạy về trời đã tối, con hẻm vắng teo, những người bán hàng ăn đã dẹp. Theo thói quen Tư lại đưa mắt nhìn vào cái mái hiên sát cột đèn. Chỗ của Ý bây giờ đã có một người phụ nữ trung niên lấp vô. Bà ta không bán cháo gà mà cháo trắng và cháo đậu. Tối nào Tư cũng thấy bà ngồi thui thủi một mình, cái đầu gục xuống bật lên như người ta nhấp cá, chắc đợi khách quá mỏi mòn nên bà ngủ gục. Tư bèn ghé vào gọi một tô cháo đậu ăn với dưa mắm. Nhìn cây cột đèn trơ trọi, Tư bỗng nhớ cái dáng phất phơ của chiếc khăn mặt ngày nào. Cái nhớ, cái đau quá cụ thể khiến Tư không kham nỗi...Tư nhủ thầm từ nay sẽ không nhìn hay ghé vào nữa.

Dãy hàng ăn đối diện còn lại mỗi dì Ba. Chắc gặp người mở hàng nặng bóng vía, bán ế cho nên dì phải làm người dẹp hàng trễ nhứt.

Không thấy Ngon, con gái của dì phụ như mọi bữa, một mình dì lui cui...

Tư dựng xe nói:

-Dì cho cháu phụ một tay.

Dì sai liền:

- Cháu bưng cái ông lò đặt vào cái thùng xe giùm dì. Nó nặng quá dì sợ khom xuống rồi đứng lên không nổi, bị cụp cái lưng thì khổ.

Tư làm xong dì lại sai bưng tiếp cái nồi còn một ít cơm dưới đáy để trên lò ; Đặt cái rỗ chén đã được rửa sạch kế bên ; Đặt khay đựng mấy hủ gia vị lên trên rỗ chén....

Dì Ba nhìn Tư khệ nệ rinh từng món bằng ánh mắt trìu mến rồi hỏi:

-Lúc nầy sao khó gặp cháu quá vậy?

Tư cười:

-Cháu mắc lo kiếm tiền tới tối tăm mặt mũi luôn, không có thì giờ...

Dì ngắt lời:

-Bận tới đâu cũng phải ăn uống đàng hoàng cho có sức chớ! Đừng có nói là bây tự nấu ăn nghe, dì không có tin cái chuyện đó đâu.

Rồi dì gặng:

-Dì thấy có một ông chạy chiếc xe Hon đa 67, hay đem cái gà mên lại cho cháu. Bộ đặt cơm tháng, họ đem giao tận nhà hả? Một tháng bao nhiêu vậy?

Tư lắc đầu:

-Không phải người đưa cơm tháng đâu, ba nuôi của cháu đó!

Dì Ba ngạc nhiên:

-Thiệt hông? Quen bao lâu mà kết tình lẹ quá vậy?

Tư gật đầu:

-Thiệt đó dì! Quen được đúng ba tháng, còn mới gọi ba má mới được mấy ngày thôi!

Bì Ba hỏi tiếp:

-Họ có nhà cửa, con cái gì hông?

Tư hiểu ý dì Ba nên nói:

-Ba má nuôi của cháu có nhà ở xóm lò mổ. Có một cô con gái nữa, bằng tuổi cháu nhưng mấy năm trước bị xe hàng đụng chết rồi.

Dì Ba lại nói:

-Dì thấy ông già đó ốm nhom! Ngó bộ không khỏe. Coi chừng mai mốt ổng bịnh tới, bịnh lui, cháu phải cưu mang mệt lắm đó!

Tư biết dì Ba thương mình mà nói vậy nhưng không khỏi phật ý, bèn đáp:

-Ba má nuôi cháu là người thật thà lắm, không có tính vụ lợi đâu. Không biết mai mốt cháu có trả hiếu lại cho đủ không, chớ hiện giờ cháu thấy toàn là mình được săn sóc không hà!

Dì Ba lắc đầu:

-Đời còn dài lắm cháu ơi!

Ngẫm nghĩ một lát dì lại nói:

-Ông bà mình hay nói: "Dò sông, dò biển dễ dò. Nào ai lấy thước mà đo lòng người". Tính cháu hiền lại dễ tin, khiến người ta cầm lòng không đậu.

Tư bỗng thấy buồn và có lỗi với ba má nuôi quá! Chàng bỗng lầm bầm tự trách: "Ai biểu mình có cái bộ vó khờ khạo làm chi, khiến ba má nuôi phải bị nghi ngờ. Thiệt là bất hiếu hết sức!".

Cũng may hàng đã dọn xong, dì ba nói:

-Cám ơn cháu nghe. Bữa nay con Ngon nó về quê ăn đám cưới nên dì phải dọn một mình.

Tư định hỏi thăm vài câu về Ngon cho dì Ba vui, nhưng lại sợ dì quay về cái chủ đề cũ, lại gợi ý cho Tư làm quen với Ngon như lúc trước nên chỉ nói:

-Cháu mang ơn dì hổng hết, lâu lâu có dịp trả lại chút xíu là mừng hết lớn.

Hôm nay Tư ăn cơm trưa với ba má nuôi rồi đạp xe ra về. Vừa dắt xe vô nhà là mưa tuôn như trút nước. Chưa kịp đóng cổng đã thấy bác phát thơ đạp xe bám sát, chạy tuốt vô nhà theo chàng luôn.

Tư vội mời:

-Bác đem xe vào nhà để khỏi ướt cái túi đựng thơ.

Ông ta vừa lấy cái túi ra khỏi xe vừa cằn nhằn ông trời:

-Khi không mà trở mặt bất tử làm người ta trở tay không kịp.

Thấy cái giá võng để giữa nhà ông nói:

-Bộ cháu cũng thích nằm võng nữa sao?

Tư cười:

-Cháu mới thích đây thôi!

Cái giá võng được làm từ mấy cây sắt nhà binh rất dày và nặng, ông hỏi:

-Cháu mua hay tự làm vậy?

Tư đáp:

-Cháu mua ở mấy cái chỗ bán xác nhà.

Lúc nầy ở Sài gòn, người ta ráp nhau hồi hương hoặc đi kinh tế mới. Có người bỏ nguyên căn nhà lại, khóa cửa để đó. Có người tháo dở ra để bán từng món.

Ai đi thì bán nhà mà đi. Ai còn ở lại thì mua mấy cánh cửa, mấy tấm tôn, cây cột, miếng ván...để tu bổ căn nhà của mình. Có cung, có cầu nên hình thành một nghề mới. Mấy người đàn ông chạy xe đạp khắp xóm rao: "Ai bán xác nhà, bàn ghế cũ hông?".

Tư giũ cái võng cho hết bụi rồi mời:

-Bác nằm võng nghĩ lưng, chờ mưa tạnh rồi hãy đi.

Bác phát thơ chợt nhớ ra, móc trong túi lấy một xấp thơ được cột thành bó bằng sợi dây thun, rút cái thơ nằm trên cùng đưa cho Tư, nói:

-Cháu có thơ nè!

Nhận ra nét chữ của Ý, Tư nghe tim mình đập loạn xạ liền đi lẹ vô phòng lấy con dao rọc giấy lòn vào mép rồi rọc một đường dài.

Tư chùi hai bàn tay vô quần một lần nữa cho thật khô rồi móc lá thư ra đọc. Lá thư không dài như Tư mong đợi nhưng cũng đủ giải tỏa những nỗi thắc mắc trong lòng chàng. Tư đọc thêm ba, bốn lần, đứng ngẩn ngơ một hồi lâu mới xếp lại cẩn thận, đúng theo cái nếp đã gấp, cho vào bao thơ như cũ.

Tư đang chìm đắm vào một nơi nào rất xa. Tiếng cười, nói, la hét ì xèo của cái đám tắm mưa chẳng lọt vào tai chàng đến một tiếng. Mấy đứa trẻ trong xóm mỗi lần mưa là vừa tắm vừa tha hồ đá banh, không sợ ai rầy. Chúng tranh giành, hò hét, gọi nhau om sòm... cuối cùng cũng khiến Tư chợt tỉnh.

Tư móc tiền trong túi ra đếm rồi đi ra nhà ngoài. Bác phát thơ đang ngáy o o trên võng. Tưởng bác ngủ say lắm, nào ngờ Tư vừa chạm vào võng là bác mở banh hai con mắt ra liền.

Bác hỏi:

-Gì vậy cháu?

Tư đáp:

-Bác bán cho cháu hết chỗ bánh nầy đi.

Bác trố mắt hỏi:

-Mua làm chi nhiều vậy? Ăn làm sao nổi?

Tư cười chỉ tay ra đường:

-Cho mấy đứa nó ăn giùm.

Ngạc nhiên và mừng rỡ, ông đếm từng cái đưa Tư rồi nói:

-Mười tám đồng!

Trả tiền cho bác xong, Tư để đầu trần chạy ra cổng gọi:

-Mấy nhỏ, lại đây ăn bánh nè!

Cả đám dừng ngay trò chơi, chạy ùa về phía Tư. Chùm bánh trong tay chàng hết vèo.

Một đứa lớn nhứt trong bọn hỏi:

-Bộ lần nầy cũng thi đậu nữa hả anh Tư?

Tư lắc đầu, kê vào sát tai nó mà thì thầm. Thằng bé bỗng hét toáng lên:

-Anh Tư sắp lấy vợ, anh Tư sắp lấy vợ. Xóm mình sắp có đám cưới rồi tụi bây ơi!

HẾT