← Quay lại trang sách

- 11 -

Vừa đặt chân đến cổng, Chơn đã nghe tiếng võng cọt kẹt từ trong nhà vọng ra. Đưa tay xô nhẹ, hai cánh cửa đang đóng mở ra ngay lập tức. Biết vợ để sẵn cửa rồi nằm đưa võng để đợi mình, Chơn vô cùng cảm động, chàng rón rén bước đến, ngồi xuống rồi ôm cả vợ lẫn võng bằng cả hai tay.

Chơn kề sát miệng vào tai Út hỏi nhỏ:

-Chưa ngủ sao cô giáo?

Khi nào nghe thương vợ dào dạt trong lòng, Chơn lại gọi Út bằng "cô giáo". Tiếng gọi đó nhắc cho cả hai cùng nhớ, cái cơ duyên đã gắn kết họ vào nhau.

Út hỏi:

-Đi đám ma có vui hông?

Nghe cái giọng quá "bằng phẳng" của Út. Chơn không hiểu là vợ đang cà rỡn hay đổ quạu nên không dám trả lời mà chỉ hỏi lại:

-Sao không vô mùng nằm với cháu? Nằm ngoài nầy muỗi cắn chết.

Út đáp:

-Nó về ngoải rồi!

Ánh trăng chiếu qua cửa cho chàng thấy chiếc xe đạp vẫn đang dựng sát vách nên hỏi:

-Đi bằng gì?

Út trả lời:

-Anh Ba chở.

Chơn hiểu ngay vì sao vợ khó ngủ. Những người trên tay có mang vết thương, khi nhúng vào nước có vị cay, chua, mặn...Hoặc khi thời tiết chỉ hơi se lạnh một chút là họ nghe xót liền.

Chơn nghe thương vợ quá! Chàng vốn nghèo từ vựng để diễn tả cảm xúc, nên chỉ biết ghì chặt vợ vào lòng mạnh hơn một chút mà thôi!

Út hiểu Chơn biết cô buồn nên rất muốn chia xẻ và an ủi. Cô đoán trong lòng Chơn đang đầy ấp cái mặc cảm tự ti, lương tâm đang vừa cắn, vừa rức vì cho mình là người có lỗi.

Muốn anh vui nên cô hỏi:

-Tía nó đói bụng hông?

Họ thường dùng hai chữ "tía nó", "má nó", trong những trường hợp đặc biệt, để bày tỏ ước muốn gắn bó lâu dài với nhau. Tiếng gọi tuy bình dị mà đầy âu yếm đó, y như con thuyền vững vàng chở họ qua mưa bão. Dù cưới nhau chưa được lâu, chưa có con nhưng họ thích gọi nhau bằng cái từ mộc mạc của thời xa xưa ấy. Cái thời mà tình nghĩa vợ chồng như một khối đá hoa cương, tròn trịa, trơn tru không một vết rạn, hình thành một cách tự nhiên, không cần đẽo gọt.

Chơn là một tay đờn trong ban nhạc của xóm.

Ở quê, hầu hết các đám như đám ma, đám cưới, đám hỏi...đều có ban nhạc đến góp vui. Đám ma cần thiết nhất, bởi gia chủ phải thức suốt đêm canh chừng, sao cho trên lư hương lúc nào cũng có ba cây nhang tỏa khói, để giúp người vừa ra đi khỏi tủi thân và ấm áp vong linh. Câu "nhang tàn khói lạnh" thường dùng để tránh móc sự thờ ơ của người sống đối với người chết. Những gia đình theo đạo phật, bàn thờ phải thắp nhang liên tục đến đủ bốn mươi chín ngày.

Để duy trì lòng nhiệt tình của nhóm tài tử. Gia chủ thường nấu cháo gà, cháo vịt...châm trà, rót rượu... phục vụ hết sức chu đáo để họ chơi hết mình cho xôm tụ. Cho nên cái câu "ăn cháo khuya" cũng giống như mấy chữ "chầu diêm vương", "đi mua (bán)muối", "ngũm củ tỏi"...đều ám chỉ ai đó đã qua đời.

Chơn không đói chút nào nhưng biết vợ rất thích thể hiện tình cảm bằng cách săn sóc và đáp ứng mọi nhu cầu của mình nên gật đầu.

Út liền bỏ chưn xuống võng, Chơn lật đật đứng dậy rồi cầm cả hai bàn tay vợ kéo lên. Thấy Út không vô bếp mà đi xăm xăm ra cửa anh hỏi:

-Má nó đi đâu đó?

Út đáp:

-Đi hái ớt với đậu rồng.

Chơn lật đật kéo vợ lại rồi nói:

-Để anh hái cho, ngoài đó mưa mới tạnh nên trơn lắm!

Út liền quay lưng đi theo hướng ngược lại. Cô ghé vào buồng, lấy cây đèn trứng vịt ra thấp sáng rồi mang vô bếp. Cô bưng cái nồi cơm đang treo trên gióng xuống. Mở nắp vung nhìn vào thấy chỉ còn một ít cơm nạt, độ chừng hơn một chén mà thôi!

Út lấy ra hai cái chén. Chén của chồng thì cô ém cơm lại cho chặt, còn chén của mình thì không, nên tuy chén cơm của Chơn nhiều gấp đôi nhưng trông chúng vẫn bằng chan nhau.

Chơn hái hai trái ớt và mấy trái đậu rồng xong thì không đi vào cửa trước mà vòng ra cửa sau, lại cái lu bên sàn nước để rửa rau, tay lẫn chân cho sạch.

Mùi thơm của mắm ruốc xào xả ớt từ bếp bay ra làm hai cánh mũi Chơn phập phồng. Chàng ngạc nhiên, hồi chiều cả nhà ăn cơm với rau lang, rau trai luộc chấm cá kho mà!

Chơn đứng tại chỗ hỏi vọng vào:

-Mắm ruốc ở đâu ra vậy má nó?

Út nhớ lời anh Ba căn dặn làm bộ không nghe nên không đáp. Nhưng cô lại để lộ tẩy vì lật đật mở cửa sau cho chồng vào. Thấy hai trái ớt một đỏ, một còn xanh chồng đang cầm trên tay thì cau mặt, kiếm chuyện cự nự để Chơn khỏi lập lại câu hỏi.

Cô gắt:

-Anh hái làm chi trái ớt còn non xèo vậy? Cây ớt trái nhỏ xíu nầy vốn là cái thứ hay để bụng nên người ta mới gọi nó là "ớt hiểm". Mình hái trái chín thì không sao, chớ hái trái non là nó giận đó!

Chơn nghe vợ nói có duyên quá nên ghẹo:

-Sao em biết nó giận.

Út cắt nghĩa:

-Hồi nhỏ em có tự mình trồng một cây ớt. Nó vừa có trái, chưa kịp chín thì em nôn quá nên hái liền. Thế là nó giận, tự mình ngắt hết mấy cái trái trên cây rồi không thèm trổ bông, đậu trái nữa.

Chơn nói:

-Không riêng gì ớt đâu. Cây nào mới ra trái "chiến" (trái đầu) người lớn đều cấm con nít đụng tay vô hái. Má anh hồi xưa trồng bầu còn cấm tụi anh nhìn trái của nó nữa. Má nói nhìn hoài nó không lớn nổi.

Đưa trái ớt xanh cho Út xem, Chơn nói:

-Anh cố ý hái trái ớt xanh cho em ăn để biết nó ra làm sao?

Út cười:

-Ớt non thì có gì mà ngon. Cũng giống ổi non, mận non, chuối non...ăn chát ngầm có ngọt gì đâu?

Chơn cười:

-Ậy! Trái ớt nầy coi non như vậy mà giòn, thơm, nồng nồng...cay vừa phải chớ không xé họng như khi chín. Một chút ăn rồi biết liền. Bảo đảm em ghiền nó luôn!

Bốn tên: mắm ruốc, cơm nguội, đậu rồng và ớt, đặc biệt là ớt xanh hết sức hợp tính, hợp tình nhau. Hai vợ chồng vét cho đến hột cơm cuối cùng vẫn còn nghe thèm. Út thấy chồng ăn ngon miệng quá nên hỏi:

-Anh còn đói hông? Để...

Chơn gạt phắt:

-Anh no rồi, không ăn nổi nữa đâu!

Út đặt mấy cái chén vô nồi định bưng ra sàn nước để rửa, Chơn liền ngăn lại:

-Để anh rửa cho, em vô giăng mùng đi!

Út nói:

-Em giăng mùng, tấn mùng xong xuôi từ nãy rồi. Thôi để em đi pha cà phê...

Chơn lại hỏi:

-Cà phê ở đâu vậy?

Út lại làm bộ không nghe, cô chẳng thèm trả lời, trả vốn gì hết. Bước lại cái bàn dài trước nhà, nơi bày sẵn bình trà, bộ tách và một cái bình thủy Trung quốc đựng nước sôi. Cô nhấc cái bình thủy lên tay, thấy còn nặng thì nhớ ra mình vừa châm đầy vào lúc nấu cơm chiều.

Út để phin cà phê vào cái tô lớn, chế nước sôi vô tô để làm nó nóng cả trong lẫn ngoài rồi lấy đũa gấp ra. Cô cho nó ngồi lên cái ly "xây chừng" dùng để uống trà, chỉ cho một muỗng canh cà phê vào phin rồi mới chế nước sôi vô đầy tới miệng. Một mùi thơm phưng phức bay ra khiến tinh thần cô vô cùng sảng khoái.

Chơn xuýt xoa:

-Cà phê thơm quá! Thứ nầy chắc mắc tiền lắm đây.

Rồi ghẹo vợ:

-Giờ nầy mà uống cà phê chắc anh ngủ hết nổi. Em sẽ mệt lắm đó!

Út làm bộ ngây thơ, nói:

-Anh uống thì anh mệt chớ mắc mớ gì tới em mà em mệt.

Chơn hăm he, giọng rất tuồng:

-Để coi lát nữa ai mệt thì biết!

Vừa thức dậy, Út liền phát hiện ra cái mùi thơm của cơm và thức ăn đã chui vào mũi mình mà trốn từ hồi nào. Bước vào bếp cô thấy Chơn đang cầm đôi đũa bếp xới tung nồi cơm đang bốc khói.

Út kêu to:

-Đừng có giầm nát miếng cơm cháy của em.

Chơn quay lại nhìn vợ, cười rồi đưa cái dĩa đựng nguyên một dề cơm cháy trên tay cho Út thấy, nói:

-Đừng có lo! Anh khựi hết ra đây rồi, không còn sót một miếng nào ở trong nồi hết.

Trong mâm đã có đủ ớt, đậu rồng, dưa leo và tất nhiên cả nửa chén mắm ruốc nữa.

Chơn lại hỏi:

-Ai xào mắm ruốc mà ngon quá vậy em? Toàn là thịt không hà!

Út biết sẽ đối mặt với câu hỏi nầy nên đã nghĩ ra một cách trả lời từ đêm qua.

Cô nói:

-Cái nầy là của anh Ba đem vô cho. Chắc cô nào làm cho ảnh, ảnh không thích hay ăn không hết nên đem vô cho mình.

Chơn tròn mắt, thích thú:

-Thiệt vậy sao? Vậy là rốt cuộc ảnh cũng chịu kiếm vợ rồi.

Út dập tắt ngúm ngọn lửa háo hức trong mắt chồng:

-Không ăn thua gì đâu anh ơi, đừng có mừng quá sớm. Ảnh hổng có thương cái cô đó đâu, nếu thương đâu có đem mấy món cổ làm mà cho mình hết trọi vậy?

Chơn thở dài:

-Bộ hồi nào tới giờ ảnh chưa hề thương ai sao em?

Út thở còn dài hơn chồng:

-Thương quá trời, quá đất mới khổ!

Rồi cô hỏi Chơn:

-Anh có biết nhà ông Năm Tiền ở mương lấp hông?

Chơn lắc đầu:

-Anh ít ra đó nên không biết.

Út nói:

-Bà vợ ổng đẻ một dọc năm cô con gái đầu, đặt tên theo thứ tự là: Ngọc, Ngà, Châu, Báu, Kim. Trong đó cô Kim là đẹp nhứt. Anh Ba với cổ thương nhau. Cô nầy hồi nhỏ đau hoài nên ốm nhom. Cha, má em có ít con trai nên kén dâu dữ lắm! Sợ cái bụng cổ sát rạt không đủ chỗ có con nên không chịu. Anh Ba đòi bỏ học đi lính nên cha, má em phải bấm bụng mà đi cưới. Nào ngờ hai cái tuổi nầy là "bất sang tuyệt mạng", cưới xong là chết liền nên hai bên không tiến tới nữa. Có một người con trai thương cổ, đeo hoài mà cổ nhứt định không chịu. Bên gia đình cổ bèn mạo chữ của anh Ba, viết cái thơ chia tay với cổ. Cổ hận quá nên ưng anh chàng kia. Nào ngờ đến ngày cưới, khi đàng trai đang rước dâu thì anh Ba em lù lù xuất hiện, thế là cổ té xỉu. Chú rể liền bồng cô dâu xuống tàu chở đi luôn.

Chơn hỏi:

-Cô đó bây giờ ở đâu?

Út đáp:

-Ở Sài gòn! Chắc chồng cổ thấy hai người nặng tình quá, sợ họ xáp lại với nhau nên dắt vợ, bồng con, bỏ xứ mà đi xa như vậy.

Sáng hôm sau, Chơn trút lộp được một con tôm càng xanh. Anh mừng rơn, bắt bỏ vô cái rộng đeo bên hông rồi chạy về khoe với vợ liền:

-Má nó ơi, ra đây mà coi nè!

Út lật đật chạy ra, nhìn con tôm to bằng cườm tay đang nằm quơ qua, quơ lại mấy cái càng trong rộng thì cười toe toét, nói với chồng:

-Má thích ăn tôm càng nấu canh khoai ngọt lắm, để em đem ra cho má liền!

Chơn chạy vào bếp lấy cái túi đệm ra, cho con tôm vào rồi đưa cho vợ.

Út đeo cái túi đựng đồ nghề dạy học lên vai rồi nói với chồng:

-Em đem tôm ra nhà má, trên đường về sẽ ghé trường luôn! Em chiên cơm rồi đó anh ăn đi.

Vừa ngồi lên yên xe, cô chợt nhớ ra nên nói với chồng:

-Anh đem hủ chà bông cá qua đưa cho chị Hai, nhớ dặn chỉ cất để dành cho má ăn cháo. Đem bịt kẹo dừa qua chia cho mấy đứa con của anh Ba phân nửa, anh Tư phân nửa.

Nói xong là hối hả đạp xe đi liền, không kịp quay lại cười với Chơn như mọi bữa. Cô không thể thấy gương mặt vui tươi và đôi mắt nhìn theo mình một cách đầy trìu mến của chồng.

Sợ trễ giờ đến trường nên Út không leo lên cầu thang để lên thăm má. Cô ngồi trên xe, chống một chân xuống đất mà kêu hối hả:

-Ý ơi, lẹ lẹ ra đây mà cầm cái nầy giùm dì!

Ý lật đật chạy ra. Cô nói liền:

-Con biết sáng nay thế nào dì cũng ra kiếm con.

Út ngạc nhiên:

-Sao con biết?

Ý đưa bàn tay ra trước mặt dì Út, chỉ vào chiếc nhẫn đang đeo ở ngón trỏ, hỏi:

-Dì kiếm nó phải hông?

Út lắc đầu, rồi thắc mắc:

-Sao con lại đeo nhẫn vào ngón nầy?

Ý xòe rộng bàn tay trái ra, chỉ vào từng ngón, bắt đầu từ ngón cái rồi đếm:

- Buồn, vui, xui, tình, bạn. Ngón nầy là ngón tay vui đó dì. Bởi vậy mấy người kết hôn rồi đều đeo nhẫn ở cái ngón áp úp, là ngón "tình" không hà!

Rồi lột chiếc nhẫn ra đưa cho dì và nói:

-Trả cho dì nè!

Út ngạc nhiên thêm một lần nữa, hỏi:

-Sao lại trả cho dì? Nó đâu có phải của dì!

Ý trợn mắt hỏi:

-Vậy thì ai đặt vô túi đồ của cháu. Ngoài dì và cháu ra đâu có ai đụng tới nó!

Dì Út lắc đầu:

-Dì hổng biết!

Ý hỏi:

-Bộ có chuyện gì hay sao mà dì ra đây sớm vậy?

Út chợt nhớ ra, đưa cái túi đệm có con tôm càng đang bún tanh tách trong đó rồi nói:

-Cháu nói cậu Ba ra ngoài hè, đào lên một củ khoai ngọt. Chuyện nầy phải nhờ ảnh mới được, chớ cháu không biết dây nào có củ, dây nào chưa đâu! Cháu làm con tôm nầy, lột vỏ, lấy cái mình bầm ba sồn, ba sực để nấu canh với khoai ngọt cho ngoại. Nhớ nấu lỏng lỏng cho ngoại dễ nuốt. Còn cái đầu thì kho tàu, để nước ít thôi, kho cho nó hơi kẹo kẹo, chấm dưa leo, đậu rồng mới ngon.

Ý hỏi:

-Kho tàu là làm sao? Cháu chưa biết!

Út hấp tấp nói:

-Lấy gạch trên đầu ra cho sạch. Đặt cái trách đất lên bếp trước, cho một muỗng mỡ nước vào phi một tép tỏi cho thơm rồi bắt xuống. Chờ mỡ nguội, cho gạch vào rắc tiêu, hành củ bầm nhuyễn, nước mắm, đường vô chung. Đặt lên lửa nhỏ, quậy đều tay cho nó sôi, có màu đỏ au thì nhắc xuống. Cho cái đầu vô liền ướp để đó cho thấm. Cho thêm một muỗng nước mắm, chút xíu nước vô rồi bắt lên bếp kho lại, kho nhanh thôi. Tôm chín cho hành xắt nhuyễn vào rồi nhắc xuống liền. Cháu đừng có trộn để cho nó thơm và có màu xanh cho đẹp.

Ý vừa nghe vừa thắc mắc về xuất xứ của chiếc nhẫn nên câu được câu không. Định hỏi lại mà thấy dì Út có vẻ vội vàng quá nên đành làm thinh.

Út vừa nhấn bàn đạp thì Ý chận tay lại, gặng thêm một lần nữa:

-Chiếc nhẫn không phải của dì thật sao?

Út gật sát cái càm xuống hết cỡ rồi nói:

-Chắc chắn! Lương cô giáo của dì đâu đủ sống. Làm gì có dư mà sắm nó?

Rồi leo lên xe chạy như ma đuổi.

Ý vừa xách cái giỏ đệm bước lên thang, vừa moi óc ra mà nghĩ. Cô cố nhớ xem, ngoài mình và dì Út ra thì còn có ai chạm tay vào cái túi đó nữa.

Dáng dấp một người con trai, hai vai đeo hai túi xách, đi từ phà lên bờ như chạy, để tránh mấy người bán hàng rong đang đuổi theo bỗng hiện ra rõ ràng trước mặt.

Ý buột miệng kêu lên một cái tên:

-Tư!

Nửa đêm, mưa về!

Trên mái tôn, cả triệu gót chân nhỏ xíu đang dận rào rào. Tư tốc mùng chạy vào bếp, lấy cái thau nhựa và nồi nhôm đặt dưới hai chỗ dột. Tiếng hai giọt nước chạm vào vật chứa nghe rất khác nhau: một thanh, một trầm y như một nam, một nữ cùng song ca với nhau vậy.

Những tạp âm đó khiến Tư nhận ra, cùng bắt nguồn từ những giọt mưa nhưng âm thanh, cảm xúc và cả tác dụng của chúng mỗi nơi mỗi khác. Nhất là về cảm xúc!

Thường thì mưa ít có khả năng gợi lại những kỷ niệm vui, trừ trường hợp nhờ nó mà ai đó đứng đụt mưa rồi quen, rồi thương được một người.

Nhưng cái vui do cơn mưa đưa đến chẳng giản dị như những niềm vui có tính cụ thể khác. Nó như một ly nước chanh có vị ngọt, vị chua, vị mặn và vô số vị khác nữa nếu ta có sở thích cho thêm chút muối hoặc bất cứ gia vị tinh tế nào đó vào, để tạo cho nó một chút độc đáo.

Mừng thì có, nhất là vào mùa nắng. Khi mái tôn cong lên như con cá chiên trong chảo. Khi hai tay Tư chẳng thể ở không, phải cầm cả hai cây quạt để quạt phành phạch... Lúc ấy chẳng riêng gì Tư mà với tất cả mọi người mưa đều được chào đón hết lòng, hết dạ.

Tư thường viện cớ tiết kiệm, khi có người hỏi là tại sao phải giầm mưa hứng nước. Thực ra Tư vẫn còn thích được tắm mưa như khi còn là con nít. Những lúc đó Tư thấy mình trẻ lại rất nhiều, nét mặt căng tràn một nỗi hân hoan vì cất trong lòng không hết!

Buồn cũng nhiều lắm! Buồn thuần túy thôi, chẳng hề dính dấp đến cái cô nàng "bực" thường nhì nhằng bám theo. Giọt buồn trong veo như giọt mưa rơi thẳng từ mây xuống. Có thể gọi là buồn "đẹp"!

Nhất là vào những lúc đêm sâu và lành lạnh như thế nầy!Tư có cảm giác như trong lòng mình đang có cái chậu đựng thứ nước có tên là quá khứ và mưa là những chiếc đũa thọc vào khuấy đảo. Lớp cặn nằm sát dưới đáy từ từ trồi lên. Ban đầu là những chấm bụi li ti rất nhỏ, rất nhẹ. Cuối cùng cả những hạt cát, hòn sỏi cũng góp mặt. Những chất trầm tích ấy đại diện cho những kỷ niệm gần gũi hoặc hết sức xa xôi. Chúng đến ồ ạt chẳng theo thứ tự về thời gian, không gian. Cũng không thèm xin phép hoặc báo trước.

Cái buồn thường có tính ôm đồm. Có khi buồn cho mình chưa thỏa, Tư còn buồn giùm cho người khác, và cả những sinh linh khác nữa.

Cái buồn trong mưa tuy sâu và rộng như vậy, nhưng lại không nguy hiểm lắm, có khi còn trái lại.

Qua một đêm thức để tai nghe mưa, hồn tắm táp, kỳ cọ trong mưa. Sáng ra ta thấy hình như mình trong trẻo, nhẹ nhàng, tươi mới lên một chút.

Đối với Tư mưa mang mùi vị của kỷ niệm. Nó chẳng những gợi lên những hình ảnh, âm thanh mà cả hương vị, cảm xúc xa xưa nữa.

Ngày trước, mỗi đêm mưa, Tư thường nhớ đến dáng lưng cong cong như tàu lá chuối của má. Nhớ tiếng mưa rơi trên chiếc nón lá của má đang đội. Tiếng nước tạt mạnh vào lề khi mấy chiếc xe gắn máy chạy băng qua vũng nước. Nhớ mùi thơm của những bụi bông sứ, bông công chúa, dạ lý hương, nguyệt quế...khi đi dọc theo công viên.

Nhưng cái mà làm Tư xúc động đến bùi ngùi chính là cảm giác yên lành khi vòng tay ôm eo má, áp chặt ngực vào lưng má để đón nhận hơi ấm được truyền qua.

Tư cho rằng không chỉ dẫn nhiệt, điện, âm thanh...nước còn là môi trường dẫn truyền cảm xúc rất tốt. Tư khẳng định một điều, tuy không căn cứ theo một luận chứng khoa học nào hết, chỉ theo cảm tính của riêng mình mà thôi! Rằng nếu trời mưa và ta đang tha thiết nhớ một ai, thì chắc chắn người ấy cũng đang nhớ đến ta, với cùng một cường độ. Như lúc nầy đây Tư đoán má và Ý cũng đang nhớ Tư!

Ngay thời điểm nầy Tư đang ngồi trước màn hình để làm khán giả độc nhất đang xem lại cuốn phim chỉ có mỗi một diễn viên là Ý.

Cuốn Phim bắt đầu bằng cái hình ảnh đã khiến Tư xao xuyến khi được Ý ngồi ngay sau lưng để cạo gió giùm. Khoảng cách khá gần nên hơi thở âm ấm của Ý phả vào lưng đã khiến Tư nổi da gà.

Nó bỗng chiếu trở lại cái buổi chiều chàng lần gặp Ý đầu tiên. Lúc đó trời mưa, gánh cháo gà nằm trong một mái hiên rất rộng. Mục đích Tư ghé vào là để đụt mưa, tình cờ bắt gặp một người con gái có cái nốt ruồi trên mặt giống như má mình rồi cảm mến luôn từ đó.

Tư nhớ đến gương mặt thật hiền và ít khi cười ấy. Bàn tay với những ngón suôn đuột đưa cái khăn lên mũi hít rồi trao Tư lau mặt. Nhớ cái dáng mềm oặt khi Ý té xỉu. Nhớ tiếng tim đập rất nhẹ như thể nó vốn đã quá nhỏ nhoi, lại phải chịu đựng nặng và nhiều quá nên đã mệt mỏi lắm rồi! Nó đã cố tình nép sát bên ngực chàng như tìm chỗ nghỉ ngơi, khi Tư ôm cô ngồi trên chiếc xích lô. Nhớ khuôn mặt xanh xao, thân hình gầy nhom, bất động của Ý trên giường bịnh...

Những hình ảnh đó quá sinh động. Khiến Tư chẳng thể ngăn mình lấy tập ra ghi lại khi chúng hãy còn ràng ràng trong tâm, trong trí.

Tư vẽ liền ba bức: Một Ý ngồi giữa gánh cháo. Một Ý quay nghiêng nhìn vào bờ sông, với cái búi tròn như trái cam trên ót, với mấy sợi tóc con trên trán và tóc mai bên tai bay phơ phất lúc ở trên phà. Bức thứ ba vẽ theo tưởng tượng, cảnh Ý ngồi hai chân đặt cùng một bên, trên cái bọc ba ga xe đạp, ngay sau lưng chàng.

Tư vẽ một mạch, không hề dừng tay để xóa một lần nào. Với cảm giác gần như xuất thần, với những hình ảnh trong óc như được chạm nổi và tô bằng một loại mực rất đậm, mới nguyên chưa kịp ráo. Tư vẽ không một chút nhọc nhằn. Như thể chỉ cần đưa những tấm giấy trắng vào rồi ấn nhẹ, giúp chúng hiện lên rõ ràng từng nét.

Tư xoa tay hết sức hài lòng vì ba bức vẽ đều trung thực với hồi ức. Một cảm giác quá tuyệt vời khiến tâm hồn chàng thăng hoa, đến nổi hai mắt bỗng rưng rưng...

Tư đã hiểu vì sao những họa sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ...sẵn sàng chết cho niềm đam mê của mình. Đó chính là vì những giây phút như thế nầy mà thôi!