“…Huế của ta ơi”
... Em xinh em gái tên là Hương giang
Đêm đêm khua ánh trăng vàng mà ca...
Phạm Đình Chương
Không biết tôi có quyền gọi “Huế của ta ơi!” như một bản nhạc véo von đương thời nào đó chăng, mặc dù tôi sinh ra ở Huế và, sau bao nhiêu năm lưu lạc giang hồ, vẫn còn nói đậm một giọng Huế chay.
Gia đình chúng tôi dời vào Đà Nẵng bằng đường biển khi tôi chỉ mới bốn tuổi. Trong trí nhớ non trẻ của tôi, Huế cũng mông lung, mơ hồ tựa như sóng biển dập dềnh đưa con thuyền chở gia đình chúng tôi về phía Nam. Nghe nói tôi đã ngủ miệt mài trong suốt cuộc viễn du đầu tiên trong đời. Lên bờ là nắng chan hòa, thiêu rụi những mảnh hoài niệm vụn vặt của một căn nhà vườn ở Huế vẫn cố bám theo tôi vào đến vùng đất mới. Huế được tách ra khỏi đời tôi như thế đó. Một nhánh rẽ của dãy Trường Sơn như một cánh tay duỗi ra nghịch nước biển Đông đã tách rời hai vùng đất ở eo thắt lưng của miền Trung. Chỉ cách nhau một chân đèo mà phân biệt rạch ròi hai giọng nói. Một bên thì đài các, quan cách đến sốt ruột, một bên thì chân chất đến nặng nề.
Khi tôi lên mười tuổi, những buổi chiều nằm dài trên bãi biển Thanh Bình nhìn mông lung về phía Bắc, mắt tôi thường dừng lại rất lâu ở chóp đỉnh núi thường có những cụm mây trắng nõn như bông gòn bao phủ. Dãy núi dài, có màu xanh mơn man làm dịu mắt người, dẫn giòng mơ tưởng của tôi đi rất xa, nhưng không bao giờ chịu dừng lại ở Huế. Đối với tôi, Huế ở đâu đó giữa rặng Trường Sơn trùng trùng xanh thăm thẳm trên cao và vịnh Lăng Cô lặng yên trải dài bên dưới. Cuộc giao hoan chan hòa và đằm thắm của thiên nhiên đã phát sinh ra vô số thắng cảnh mang những cái tên đầy truyền thuyết như Tiên Sa, Sơn Trà, Liên Chiểu, Hải Vân, Bạch Mã... Chiều chiều, tôi lại lang thang đạp xe ra bãi biển, nằm gối đầu lên tay, thả hồn về phía đỉnh núi cao, mong sẽ một lần tình cờ bắt được một cụm mây trắng trong tay. Những ngày trời trong xanh, tôi thường hay thả tầm mắt xa hơn về phía Bắc, nhưng vẫn chưa bao giờ định ra được Huế nằm ở đâu. Những lần ấy, tôi thường ủ rũ trở về nhà trong tâm trạng của một đứa trẻ côi cút, chưa một lần biết được mặt người mẹ của mình. Từ một ngõ ngách nào nó trong chuỗi mộng mơ của những ngày đầu đời, tôi đã mường tượng nhận ra con người lãng mạn thầm lặng, đầy chất Huế của mình.
Trong suốt thời gian chiến tranh, Huế được cắt ra thành nhiều mảnh vụn, rời rạc trong trí nhớ của tôi. Những ngày hè ngắn ngủi không kịp tạo được một hoài niệm gì. Hoặc giả tôi còn quá trẻ con để cùng thao thức với những anh-trai-Huế bàn chuyện “lấp biển vá trời” bên cạnh những ly cà-phê liêu trai của chị em cô Dung trong Thành nội (cô em mặt tròn quành quạnh như trăng rằm tháng Tám!); hoặc giả những vết tích đổ nát của bom đạn và mục rữa của thời gian trên cái hình hài còm cõi nhưng đầy kiêu hãnh của Huế đã làm tê liệt chút tri thức còn lại trong tôi. Tôi vẫn chưa hiểu được tại sao người ta lại quấn khăn tang cho cả cây cối trong vườn và cái gì ở sau tiếng thở dài não nề trong mỗi câu hò, điệu hát ở Huế. Ở vào tuổi dậy thì, tôi hối hả sống, chỉ muốn quên, không muốn nhớ.
Tôi biết quá sơ sài về nơi chôn nhau cắt rún của mình, nên khi trở về Huế những năm gần đây, tôi như người ngụp lặn trong cõi đời mơ tưởng hão huyền. Huế có cái gì đó rất thanh khiết khiến tôi phải trầm mình xuống, rũ cho sạch hết những đám bụi trần vương vấn, trước khi hòa hồn mình vào cảnh thiên nhiên vừa u tịch, vừa thanh thoát. Phải như thế mới cảm thông được vẻ đẹp trầm buồn muôn thuở của người và cảnh vật ở Huế. Cuộc giao thoa giữa khách đồng điệu và đất thần kinh phải rất tự nhiên, không gượng ép, tựa như chiếc lá vàng thả mình nương theo gió, chao lượn vài vòng, rồi nhẹ nhàng đáp xuống một mặt hồ im vắng thơm ngát hương sen. Cái cảm giác nhẹ tênh, thống khoái tột đỉnh ấy tôi đã có lần lầm lẫn với sự bất diệt của vũ trụ, khi đứng trên đỉnh Hải Vân muốn dang hai tay thả người xuống vùng vịnh lặng yên bao la bên dưới.
Có lẽ tôi sẽ làm chuyện lẩm cẩm nếu kể hết những cảnh đẹp ở Huế. Huế còn quá nhiều cái đáng để nhìn, để ngắm, kể cả những tấm lòng thành chưa hề suy suyển trong cơn “đại hồng thủy kim tiền” thời đại. Cái đẹp của Huế vốn rất kiêu kỳ, không khêu gợi mời gọi bạn. Nó không chiếm chỗ nằm yên trong võng mô của thị giác mà đi thẳng tuột vào hồn bạn, rồi ôm lấy trái tim khô héo của bạn mà mà vỗ về, tỉ tê tâm sự.
Trên suốt một dải giang sơn cẩm tú của quê hương ta, tôi nghĩ chỉ ở Huế gió mới có màu sắc và nước có mang mùi hương. Những ngày đẹp trời, gió từ thượng nguồn sông Hương mang theo sắc hòa chung của trời, mây và nước, thổi một dải màu thiên thanh mỏng lướt thướt qua những tàn cây, tô đậm từng cánh lá óng lên như ngọc dưới nắng ban mai. Lớp sương mù mỏng mỗi sáng sớm phủ trên mặt sông phả một mùi hương thoang thoảng từ loài cỏ thơm giấu mình trong nước và các loại hoa sứ bí ẩn từ “tử cấm thanh” tù túng. Dòng sông Hương như cô con gái kiêu sa, thay đổi màu sắc và dáng điệu theo từng thời khắc của ngày, nhưng bao giờ cũng đẹp kỳ diệu. Nhưng nó chỉ là một nét trong một toàn cảnh hài hòa của Huế. Con sông lặng yên như một tấm thảm xanh thông ra một cửa trời dẫn lên thiên thai, nguồn hứng viết nên bài nhạc bất hủ của cố nhạc sĩ Văn Cao. Người xưa quả rất có mắt khi chọn đầu nguồn dòng sông, nơi hội tụ đầy đủ hồn thiêng trời-sông-núi để xây tháp Linh Mụ, khiến người viếng chùa có cảm giác như đã gần kề cõi Niết bàn. Con sông ấy cũng theo chân người về nhà, chia cái đẹp chan hòa ấy trong những cảnh nhà vườn dân dã ở thành nội hay những hưu viên, phủ chúa ở khu Vĩ Dạ. Những ngôi nhà vườn vuông vắn, um tùm cây ăn trái và cây cảnh, trong đó người và thiên nhiên cùng hít thở chung một vùng trời hạn hẹp, cùng chia sẻ những ngày tháng đầy ứ kỷ niệm riêng tư. Những mảnh vườn thu hết tinh hoa của đất-trời vào một góc, mở cửa (trước, sau, bên hông) bước ra khỏi cửa là tới vườn. Người và cây cỏ ôm ấp lấy nhau như bạn tri âm. Từ đó, tôi hiểu tại sao cây cối cũng có quyền để tang thương tiếc người quá cố, như thân nhân ruột thịt.
Tôi có thể chỉ mê Huế đến một mức nào đó thôi, nếu chỉ dừng lại ở sự giao cảm bình thường với cảnh quan. Có lúc tôi tưởng đã hưởng trọn vẹn những gì còn sót lại ở trên đời, với đỉnh cao là những lần nằm biếng nhác nghe tiếng lá thông trở mình xào xạc trong gió ở hồ Thiên An hay để mình ngập lụt trong đêm trăng-trải-lụa-vàng tuyệt vời ở một quán cà-phê trên tường thành hay bên bờ sông Gia Hội.
Cho đến những ngày gần đây tôi vẫn chưa hiểu được cái gì ẩn sau giọng hò u uẩn như tự nuốt lấy lời mình phát ra của những nàng ca kỹ trên sông Hương. Tôi nghĩ sẽ không bao giờ có thể hiểu nổi điều bí ẩn đó nếu không có một chuyện tình cờ xảy ra. Vào một buổi trưa hè, trong lúc đang nằm uể oải phô mặt dưới lưỡi dao cạo của một anh thợ hớt tóc trẻ ở một quán đầu đường, tôi đã rợn người khi chợt nghe một giọng ru con bi ai trỗi lên từ phía bên kia tấm phên tre. Trong gió Lào trăn trở, tiếng ru con của người đàn bà ngân lên dai dẳng, như muốn buộc mọi người phải nghe, phải chia sẻ nỗi khổ tâm của mình. Tôi ghé mắt nhìn qua khe cửa, một mái tóc đen huyền đổ dài theo nhịp chiếc võng đong đưa, che hờ một mảnh ngực trần trắng phau ngần lên trong nắng. Một đứa bé con gầy nhom đã no sữa nằm gối đầu ngủ vùi trên cánh tay phải của người mẹ. Tôi không nhìn thấy mặt người thiếu phụ, nhưng chắc chắn nàng còn trẻ lắm. Rồi tiếng ru con bỗng giãn ra tan loãng vào không khí. Nhìn sang, người thiếu phụ đã ngủ quên, vòng tay ôm chặt lấy đứa bé. Tôi thở dài nhẹ nhõm. Chị ta chỉ tâm sự một chút thôi mà! Anh chồng cũng ghé mắt nhìn qua tấm phên, mặt anh toát ra một vẻ hài lòng, rất thư giãn. Tôi không nghe anh thở dài, như tôi.
Có một dạo, Huế đã trở thành phương thuốc chữa trị bệnh ức chế mãn tính hữu hiệu nhất của tôi!
Viết tặng các con Trường Sơn và Hoài Hương.
Bangkok, tháng 2-1996