Văn hóa xe buýt công cộng
Lần nào về thăm nhà tôi cũng dùng phương tiện xe buýt công cộng để di chuyển trong thành phố. Đó là một loại xe nhỏ màu vàng, vóc dáng và phân bố chỗ ngồi tương tự như xe-lam-ba-bánh cũ, nhưng cửa lên xuống đặt ở bên hông. Xe chạy tuyến Tân Sơn Nhất - Bến Thành, rất tiện lợi cho nhu cầu di chuyển của tôi. Có khi thấy tôi kiên nhẫn đứng chờ xe giữa trưa nắng, nhóm xe ôm và xích lô đạp “đóng chốt” ở góc đường thường tỏ ý không đồng tình lắm với sự lựa chọn “khác người” của tôi. Để đáp lại lời chào mời của họ, tôi thường nhã nhặn cám ơn và kiên tâm đứng ngóng chiếc xe buýt!
Dĩ nhiên là tôi không chọn phương thức di chuyển này chỉ vì giá rẻ, mà vì nhiều lý do khác. Trước hết, mặc dù đó chỉ là một chiếc xe nhỏ, nhưng lại là một phương tiện tương đối “an toàn” nhất cho hành khách ngồi trong xe, có thể tránh được những rủi ro thường xảy ra giữa một rừng xe hỗn tạp đủ các loại bốn, ba, hai và một bánh… lên xuống, qua lại như mắc cửi và hình như không theo một qui luật lưu thông nào. Nhưng quan trọng hơn, mỗi lần đi xe buýt tôi tìm lại được cái “bản chất xã hội” của tôi, khi tự hòa mình vào cái “dòng chảy của cuộc sống bình thường” và trao đổi đôi ba câu chuyện bên lề với một vài hành khách cùng chung tuyến đường. Cũng chỉ là những mẩu “chuyện đời thường” cho qua thì giờ thôi, nhưng bao giờ cũng đằm thắm và đầy nhân tính, như thể tách ra từ chính đời sống thân thiết của người đối thoại. Phần lớn hành khách thường xuyên của các chuyến xe buýt này là những hưu viên, người buôn bán nhỏ lẻ tẻ, công nhân lao động cấp thấp, khách từ quê lên thành phố và học sinh nhỏ tuổi. Họ cam phận nhưng tự tin, trung thực và thường bằng lòng với những gì đang có.
Một hành khách tuổi “thất thập cổ lai hy”, nhân chia sẻ với khách đồng hành về tình tình lưu thông phức tạp hiện nay trong thành phố đã gợi cho tôi một khái niệm “phát triển cộng đồng” rất sâu sắc, vừa giải thích được hiện trạng, vừa đề xuất một giải pháp để cải thiện trong tương lai. Ông nói: “Trẻ con chúng ta ngày nay mỗi bước ra khỏi nhà nhất nhất đều dùng xe máy. Họ không hề biết đến hoặc thử dùng các phương tiện chuyên chở công cộng như thời chúng ta ngày trước. Họ không có “văn hóa xe buýt” như trẻ con khắp nơi trên thế giới”.
Trong lúc mọi thành phần của cộng đồng sinh hoạt xã hội, từ quan chức chính quyền tới thứ dân, đều đang tận lực mưu toan tìm kiếm một giải pháp ổn thỏa cho vấn đề lưu thông nan giải hiện nay, thiết nghĩ nhận xét của vị công dân cao niên đó nghe thật chí lí. Việc phục hồi, giáo dục và quảng bá một “nền văn hóa xe buýt”, nếu được thực hiện kịp thời và đến nơi đến chốn, sẽ tạo tiền đề vững chắc góp phần tích cực vào việc xây dựng và triển khai một giải pháp khả thi, toàn bộ và bền vững cho vấn nạn lưu thông đô thị của hầu hết các thành phố trên toàn quốc.
Hầu hết những người tôi đã gặp và thăm dò về kết quả sơ khởi của các “xe buýt mẫu” thử nghiệm trong vài tháng vừa qua ở thành phố thường không mấy tin tưởng vào khả năng thành công của sáng kiến đáng cổ xúy này của chính quyền sở tại, mặc dù giá cả khá phải chăng và bề ngoài các chiếc xe cũng khá tươm tất. Lý do nêu ra thật nhiều, nhưng tựu trung thị dân vẫn không hưởng ứng vì các xe buýt “mẫu” này vẫn không bảo đảm được những yêu cầu căn bản cho người sử dụng về thời gian, an toàn và tiện nghi. Nhưng quan trọng nhất vẫn là cái “quán tính”, hay nói đúng hơn nền “văn hóa xe gắn máy”, đã ăn quá sâu vào lối sống và cư xử trên đường phố hàng ngày của thị dân của nhiều thế hệ. Người ta vẫn thấy “thoải mái” và “tiện lợi” hơn nhiều trên yên xe máy, vì chỉ cần rẽ trái hay phải là đã có thể “tiếp cận” được với địa chỉ mong muốn nhanh nhất, ngắn và gọn nhất, cho hầu hết mọi hoàn cảnh và mục đích từ mua sắm cho tới giải khát, đón đưa, hẹn hò…
Trong một nền “văn hóa xe máy” phổ biến như vậy, dĩ nhiên chuyện khuyến khích thị dân sử dụng xe buýt công cộng sẽ trở thành ảo tưởng nếu không đi kèm với những biện pháp đồng bộ và mạnh mẽ khác. Trước mắt, phải cương quyết thay thế nền “văn hoá xe máy” bằng nền “văn hóa xe buýt”, bắt đầu từ những trường học, nơi tập trung đào tạo thế hệ tương lai của đất nước.
Hầu hết các nước trên thế giới đều hiển nhiên chấp nhận bù lỗ cho các phương tiện chuyên chở công cộng. Học sinh, sinh viên, công nhân và hưu viên (tùy trường hợp) đều được hưởng chế độ trợ cấp di chuyển, nếu dùng phương tiện chuyên chở công cộng. Chẳng hạn ở Mỹ, các chính quyền địa phương cung cấp xe buýt vàng đưa đón học sinh miễn phí từ tiểu học đến cấp 12; ở Hà Lan và Đức, học sinh và sinh viên được cấp thẻ có giá trị sử dụng chung, gồm xe buýt, điện ngầm, xe lửa… trên toàn quốc (tính vào học bổng hàng năm); tất cả những người làm việc có lương và gia đình đông con ở Pháp đều được hưởng phụ cấp hoặc trợ cấp di chuyển công cộng; ở Trung Quốc giá cả các hệ thống chuyên chở công cộng được giữ rất thấp để mọi người đều có thể trả được. Chính nhờ vậy, các thế hệ công dân của xứ người đều bắt đầu làm quen, trưởng thành và sinh hoạt trong một môi trường “văn hóa công cộng”, khiến họ luôn gắn bó với cộng đồng, có khả năng thích ứng với tình thế và tính tự lập cao.
Cái vòng lẩn quẩn về tệ nạn lưu thông ở đô thị do quán tính “văn hóa xe máy” sẽ giảm triệt để nếu toàn thể cư dân của thành phố đồng lòng và quyết tâm sử dụng xe buýt công cộng như phương tiện duy nhất được trợ cấp. Hãy thử bắt đầu với bước chuyển biến căn bản đầu tiên là cấp thẻ xe buýt miễn phí cho toàn bộ học sinh, sinh viên, công viên chức; hoặc trợ cấp cho hưu viên và công dân cao tuổi… Sau đó là giải tỏa các bãi đậu xe gắn máy ở các trường học, cạnh trường học, công sở và “tái tổ chức” các điểm giữ xe ở các nơi công cộng và trung tâm thành phố (với giá cao), như một nguồn thu nhập cho ngân sách phát triển của thành phố.
Sự chuyển đổi quán tính của một số lượng đông đảo thị dân chắc chắn sẽ tạo một chuyển biến mạnh mẽ và cần thiết để cải thiện cảnh quan, văn hóa và môi trường của thành phố. Ít ra cũng sẽ không còn cảnh các “cậu ấm, cô chiêu” lả người nôn oẹ vì say sóng khi phải ngồi trên tàu thủy, máy bay, xe lửa hay xe hơi… do từ bé chỉ quen di chuyển trên yên xe máy!
25/5/2002