A-chang bám càng
Cơn khủng hoảng tiền tệ, đến như một cơn giông đột ngột, đã khiến toàn bộ thần dân vương quốc Thái thất điên bát đảo. Vô số công trình xây dựng phải bỏ dở dang, nạn móc túi trở nên phổ biến ở nhiều nơi, buôn bán trên đường phố càng thêm tấp nập, chợ trời mở ra nhan nhản… Thản nhiên như dân Thái, thế mà một buổi sáng thức dậy, thấy của cải mình đã cung cúc dành dụm trong mấy chục năm bỗng dưng chỉ còn một nửa vì đồng baht trượt giá, cũng phải giậm chân, đấm ngực than trời.
Quả thật, cơn bão tiền tệ đã không tha một ai! Khi đồng baht đã chạm đáy, tôi đành phải tạm cất bỏ chữ “sĩ” cố hữu, chấp nhận dạy một vài lớp phụ thêm ở bên ngoài để bù đắp vào những khoản mất mát bất thường. Trong số những hoạt động “ngoài luồng” này, lớp “chuẩn tiến sĩ” ở Học viện Quốc gia về Hành chánh Phát triển (NIDA) đã cho tôi nhiều điều thú vị bất ngờ.
Ở Thái Lan, giáo chức đại học là một thành phần được kính trọng hàng đầu trong xã hội, sau hoàng gia và tăng lữ Phật giáo. Họ được gọi chung là “thầy” (arjan, phát âm a-chang). Sinh viên khi nhận đề thi hay khi gặp thầy đều chắp tay quá trán vái chào (wai) rất kính cẩn. Lớp học ở NIDA thường chỉ có khoảng mười sinh viên, bắt đầu vào sáu giờ chiều để mọi người có thể đến lớp sau giờ làm việc. Phần lớn họ là công chức đương nhiệm, sĩ quan quân đội, giảng viên đại học, hoặc doanh nhân độc lập, có định hướng và tham vọng rõ rệt đối với sự nghiệp tương lai của mình.
Thông thường, sau những giờ lý thuyết về môn giảng trong những tuần đầu, những lớp kế tiếp được tổ chức dưới dạng hội thảo chuyên đề để sinh viên làm quen với kỹ thuật khai triển đề tài và bảo vệ luận án tiến sĩ sau này. Những đề tài được chọn lựa phần lớn có liên quan đến công việc và quan tâm thiết thân của sinh viên. Một công chức cấp cao của Bộ Tài chánh chia sẻ kinh nghiệm về diễn trình thương lượng mỗi tam cá nguyệt với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ở Geneva mà chị là thành viên thường trực trong phái đoàn Thái. Một viên chức ngân hàng giải thích nguyên nhân dẫn đến hiện tượng sụp đổ dây chuyền của các định chế tài chính trong cuộc khủng hoảng tiền tệ vừa qua. Một giảng viên đại học trình bày giải pháp của mình nhằm giải quyết vấn nạn rác thải ở thủ đô Bangkok. Nhưng lý thú và sôi nổi nhất vẫn là những cuộc tranh luận bên lề trong giờ giải lao. Một sinh viên, vốn là dân biểu quốc hội đương nhiệm thuộc đảng cầm quyền, vô tình đã trở thành trung tâm tiếp nhận những phê phán và qui trách cho tất cả những tai ương mà cả nước Thái đang phải đương đầu. Họ tranh cãi rất sôi nổi, ít khi khoan nhượng, nhưng sau đó ai cũng đều cười xuề xòa khi trở lại lớp. Mọi người đều chấp nhận vai trò “phát ngôn viên chính phủ” của vị dân-biểu-kiêm-học-viên đồng khóa, nhưng chẳng ai ủng hộ lập trường của ông ta. Họ chống đối, chế giễu ông, nhưng tuyệt nhiên không khinh rẻ và phân cách ông. Một tháng sau, chính phủ đương nhiệm sụp đổ, ông “dân biểu sinh viên” trở thành “dân biểu đối lập” nói năng trở nên phóng khoáng và lập luận có vẻ vững vàng hơn. Bạn đồng khóa chẳng ai nhắc lại chuyện cũ. Ông nói với tôi: “Thầy đã khuyên thật chí lý. Ở vai trò đối lập tôi mới thấy rõ được nhiều điều. Chống đối thì quá dễ, nắm quyền mới là khó!” Tôi chỉ mỉm cười. Với một lớp học đa dạng và sôi động như thế, tôi mới chính là người học được nhiều điều nhất!
Ở khóa thứ hai, tôi còn học được thêm nhiều hơn nữa về xã hội và văn hóa đương thời của vương quốc Thái. Một ông tướng-ba-sao, khi được hỏi lý do tham dự lớp học, đã trả lời rất đơn giản là ở cương vị một Giám đốc Học viện Cao đẳng Quốc phòng, nhân viên thuộc quyền nhiều người học vấn uyên thâm, kiến thức cao rộng hơn ông, nên ông đành phải “trở lại lớp” để trau dồi thêm kiến thức. Ông nói với một giọng thành khẩn, rất tự nhiên, khiến tôi bàng hoàng khi so sánh với chân dung các tướng lãnh được biết khác. Một hôm trong giờ giải lao, nhân tình cờ bàn đến hình thức cúng kiếng ở Á châu, tôi đã kể chuyện các sơn tràng ở Việt Nam thường phải xuyên rừng, ‘‘ngậm ngải tìm trầm’’ khổ ải như thế nào. Ông tướng nghe chăm chú, nhưng im lặng không nói gì. Vài tuần sau, ông gọi điện thoại báo cho tôi biết, qua một bạn đồng khóa là tư lệnh một quân khu ở vùng Đông Nam Thái Lan, đã nhờ nhân viên thủy lâm địa phương tìm ra cây “gỗ trầm hương” tôi đã mô tả hôm nọ. Giọng ông sôi nổi qua điện thoại: “Nếu nhân giống thành công, các sơn tràng đồng hương của thầy không cần phải cắt rừng, khổ nhọc tìm kiếm món trầm hương đó nữa”. Ông mời tôi đến nhà chơi để tận mắt nhận dạng cây trầm. Trong thời gian chờ đợi, chính ông sẽ chăm bón cây để tôi mang về Việt Nam giúp họ nhân giống, nuôi cây, khai thác “trầm vườn”, cho đời bớt khổ.
Một cuối tuần tôi đến thăm như đã hẹn, ông tướng đưa tôi ra sau vườn nhà, chỉ những loài cây lạ ông vừa lấy về từ những cánh rừng già ở Thái Lan, cười đùa:
“Vừa là một cách thiền, vừa là cách hòa mình với hồn thiêng sông núi!”
Tôi cùng ông hồi hộp ngắm nhìn chậu cây “trầm hương” ẩn dưới bóng nắng, lòng dâng lên một nỗi cảm kích dạt dào. Ông thận trọng giải thích, dù là cây rừng nhưng vẫn còn non nớt, nên ông đã dặn người nhà che chắn cho cẩn thận trong những tuần đầu, để cây đủ mạnh có thể sống được sau này trên đất Việt Nam. Ôi, lòng thành của người đời thật mênh mông và tuyệt diệu. Làm sao tôi có thể nói cho ông biết được là cây ‘‘trầm hương’’ ông đã cất công tìm cho tôi, dù có cho mùi hương (một loại gỗ trầm), nhưng không phải là loại cây dó ôm cái ‘‘lõi trầm’’ hiếm hoi vô vàn mà các sơn tràng Việt ra công tìm kiếm trong những cánh rừng già bạt ngàn.
Vài tuần sau ông gọi lại, báo cho tôi biết là cây “trầm hương” đang chết dần vì ông đã quá nhiệt thành, bón phân quá liều lượng khiến cây nóng gốc, khô hết lá. Sợ tôi buồn lòng, ông cam đoan sẽ tìm ra một cây khác cho tôi. Cho đến nay, tôi vẫn còn nợ ông một tấm lòng!
Sau mỗi lớp học, một sinh viên nào đó thường hay cho tôi quá giang đến bến xe buýt ở cửa ngõ ra thành phố. Từ đó, tôi sẽ lấy chuyến xe đêm về campus của trường, nằm cách trung tâm Bangkok hơn 40 cây số. Lộ trình này kéo dài hơn một giờ và xe thường đầy hành khách, vì đó là giờ khởi đầu ca đêm của nhiều hãng, xưởng quanh vùng ngoại ô. Tôi chọn phương tiện chuyên chở công cộng này dĩ nhiên không phải vì giá rẻ, mà để được gần gũi, hòa chung vào một đám đông mà tôi cho là tiêu biểu và đáng yêu nhất của xã hội Thái. Họ là những công nhân trẻ và những học viên các khóa hàm thụ ban đêm, thường bước lên xe với một nhận thức rõ ràng về thân phận và vị trí của mình trong xã hội. Cách đứng và ngồi của họ toát ra một sự giản dị, không vội vàng, không đua chen. Người ngồi thường tự nguyện giữ túi xách hay cặp sách cho người đứng, dù không quen biết nhau. Hầu như không có ai có ý nhanh chân chiếm một chỗ ngồi trống, mà thường nhường cho nhau. Tôi có cảm tưởng là mọi người cùng thỏa thuận về một cách ứng xử nhẹ nhàng nhất để chuyến xe đêm được thoải mái và thân ái nhất. Nói cho văn vẻ, đó cũng là một cách thiền vào cuối một ngày, để có cái tâm thoáng đạt mà tiếp tục chuỗi cần lao dài trước mặt trong những ngày sắp tới.
Ở ngã ba chia đôi hai tỉnh giáp ranh, tôi rời xe buýt, sang qua xe xỏng thẻo[1] để kết thúc lộ trình dẫn về nhà. Vào khoảng 10 giờ rưỡi đêm, xe lôi loại này đậu dài dọc theo bến xe liên tỉnh đi Đông Bắc Thái, chờ đón khách về muộn trên các quãng đường ngắn. Việc chở khách rất tùy tiện và giản dị, khi nào đủ khách thì đi. Tài xế đứng tán gẫu đâu đó như khách nhàn du, làm như e ngại lời chào mời của mình sẽ làm tan vỡ màn đêm yên tĩnh. Bao giờ tôi cũng chờ người khách cuối cùng an vị trên ghế, rồi đưa hai tay bám lên trần xe, đu người đặt hai chân lên chiếc bửng bên dưới, nhún thử để đo lường mức an toàn, xong rồi thì an tâm phóng một cái nhìn hài lòng vào lòng xe. Lần nào cũng vậy, một cánh tay nào đó sẽ đưa ra tự nguyện nhận cái cặp đựng đầy tài liệu “giáo trình/giáo án” đeo toòng teng trên cánh tay phải của tôi.
Xe bắt đầu chạy và tăng dần tốc độ. Hai tay vẫn bám vào càng xe giữa gió lùa lồng lộng, áo căng phồng như cách diều bọc gió bốc lên cao. Trong một thoáng tôi nghĩ: “Nếu có một sinh viên nào đó thấy mình trong cảnh này thì sao nhỉ?”. Nhưng ngay tức khắc, tôi tự trả lời mình với một chút tự hào rất trẻ con: “Thì đã sao nào, a chang thì cũng phải sống cho ra sống chớ!”
Bỗng dưng tôi thấy mình như nhẹ hẫng đi. Bao nhiêu phiền muộn của đời thường dường như đã rơi rụng hết trên đường…
AIT, 6-1999
Chú thích:
[1] Xe “xỏng thẻo”: loại xe lôi bốn bánh có hai hàng ghế, lớn hơn xe tuk tuk và xe lôi ba bánh ở Việt Nam.