← Quay lại trang sách

Bao giờ bắt kịp Thái Lan?

Vào tháng tư năm rồi, trong thời gian chờ chiếu khán nhập nội vào Việt Nam ở Viện Công nghệ châu Á (AIT), Bangkok, tôi đã có dịp hiểu thêm về Thái Lan, một quốc gia mà nhiều người thường đề cập đến trong các cuộc nói chuyện công hay tư, khi bàn về một mô hình phát triển cho Việt Nam.

Một điều đã khiến tôi vừa thích thú vừa gợi sự hiếu kỳ, là không ít người quả quyết rằng việc nước ta bắt kịp Thái Lan không phải là một điều khó. Lập luận thường được nêu ra như sau: Thái Lan trước kia còn chậm tiến hơn ta, đó là chưa kể đến các đức tính đặc thù, trội hẳn của tầng lớp lao động Việt Nam. Trong hào khí sôi nổi của niềm ước nguyện chung cho dân tộc (tôi cùng chia sớt ngọn lửa đó), nhiều người đã “say” với viễn cảnh là không bao lâu nữa, Việt Nam sẽ thay thế Thái Lan làm cửa ngõ (gateway) mở ra Thái Bình Dương, một vùng năng động, đầy cơ may cho cả thế giới trong tương lai. Dĩ nhiên, có nhiều lý do khách quan và chủ quan dẫn đến sự tin tưởng lạc quan như thế, nhất là dựa vào mức tăng trưởng kinh tế đều đặn trong mấy năm qua và vị trí chiến lược đặc biệt thuận lợi của Việt Nam trong toàn cảnh.

Vì thế, nhiều người đã rất bực mình khi tôi nêu dự kiến cá nhân là chúng ta còn cần một thời gian khá dài (có thể ít nhất là 10 năm trong vài lĩnh vực) để bắt kịp Thái Lan. Để tránh hiểu lầm (nhất là tự ái dân tộc), xin nêu ra một vài luận cứ ngõ hầu có thể rút ra vài kết luận cụ thể và hữu ích.

1. Trong khi quan lại triều Nguyễn còn mơ ngủ trong bóng tối của chính sách “bế môn tỏa cảng” giữa vòng Thành Nội Huế thì Thái Lan đã tiến khá xa với phong trào canh tân của vua Chulalongkorn, nhất là về mặt giao thông, hành chính, giáo dục và chế độ quân chủ đại nghị theo mô hình châu Âu.

2. Trong quá trình lịch sử cận đại, với chính sách ngoại giao “gió thổi chiều nào ngả theo chiều ấy”, Thái Lan là nước duy nhất trong vùng không phải chịu số phận đô hộ của bất kỳ một cường quốc hay đế quốc nào.

3. Trong khi Việt Nam hầu như kiệt quệ về vật chất và nhân sự trong hai cuộc kháng chiến liên tục, Thái Lan đã khởi đầu giai đoạn phát triển kinh tế của một hậu phương sống trong hòa bình với viện trợ ồ ạt của Mỹ.

Với một hoàn cảnh và một căn bản xuất phát thuận lợi như vậy, việc Thái Lan phát triển hơn Việt Nam trước và sau 1975 là điều gần như hiển nhiên.

Thật vậy, lần đầu tiên tôi được tiếp cận với Thái Lan là vào giữa năm 1974, thủ đô Bangkok đã vượt xa Sài Gòn cả một thập kỷ về nhiều phương diện và trình độ. Chẳng hạn phi trường quốc tế Dong Muang có thể thua sút Tân Sơn Nhất về tổng số phi vụ lên xuống hàng ngày (phần lớn cho mục đích quân sự), nhưng vượt hẳn về cấu trúc, phương tiện và cung cách phục vụ. Mặt khác, vào thời điểm đó, nông thôn Thái Lan cũng tiến bộ hơn về mức sản xuất và đời sống, kết quả của sự can thiệp và chỉ đạo trực tiếp của quốc vương đương nhiệm Phumiphol.

Gần 20 năm sau, được quan sát xã hội Thái Lan từ nhiều góc độ một cách cặn kẽ hơn, tôi càng “khổ tâm” vì cái khoảng cách biệt tiền định đó thật khó lòng thu hẹp, nếu không có một điều gì “nhiệm mầu” xảy ra.

Để có một cái nhìn toàn bộ và khách quan hơn, tôi đã cùng một vài sinh viên đồng hương đang theo học ở AIT (một cơ sở giáo dục sau đại học có tầm vóc quốc tế, cách Bangkok 42 cây số) thực hiện một chuyến đi thực tế trong ngày, thử dùng tất cả các phương tiện giao thông công cộng hiện có quanh và trong thủ đô Bangkok. Thì cũng xe khách đường dài đưa chúng tôi đến bến xe ngoại thành, xe lôi tuk tuk, xe buýt di chuyển trong nội thành, rồi xe lửa đưa chúng tôi trở lại điểm tiếp giáp gần nhất với AIT, để chấm dứt bằng một chuyến “Honda ôm”… nhưng nhất nhất đều vượt hẳn ta một đoạn đường khá dài. Nếu quan sát kỹ một chút ta sẽ thấy sau cái dáng bề ngoài “hao hao” Việt Nam ấy, mọi sự đều được tổ chức và điều hành ngăn nắp hơn và số đông có vẻ như sẵn sàng tự nguyện tuân thủ trật tự công cộng. Chẳng hạn ngay cả trên xe khách ngoại thành, tài xế và nhân viên bán và kiểm vé đều mặc đồng phục, không có cảnh “cò” xe hùng hổ ở bến hay “lơ” xe đu người trên thành cửa, la hét nẹt khách bộ hành trên đường. Người Thái bình thản xếp hàng ở các trạm xe buýt, xe lửa và các quầy phục vụ nơi công cộng, không ai chen lấn, hoạnh họe ai. Ngay cả chuyện “Honda ôm” cũng đáng cho chúng ta suy ngẫm: tất cả người hành nghề này (trong hay ngoài thành phố) đều đội mũ bảo hộ và mặc áo có đeo mã số để đảm bảo an toàn cho khách và tiện cho việc theo dõi trật tự lưu thông. Người Thái cũng ít hút thuốc nơi công cộng và chỉ hút thuốc ở những nơi được cho phép rõ ràng.

Xét một cách khách quan, thời gian và thời cơ thuận lợi là những yếu tố đã giúp Thái Lan, qua nhiều triều đại và chính phủ, kiến tạo được một nền luật pháp, hành chính và giáo dục khá hoàn chỉnh, đặt nền móng cho sự phát triển của một xã hội tự tổ chức (self organized) khá ngăn nắp và hữu hiệu. Tuy nhiên, điều quan trọng không kém là Thái Lan có được một trình độ dân trí và tác phong công nghiệp khá cao, được thể hiện phổ biến trong cung cách cư xử, giao tiếp thường ngày ở nơi công cộng và làm ăn buôn bán. Nhờ vậy, Thái Lan là nơi hấp dẫn cho khách du lịch và đầu tư trong một thời gian dài, mặc dù ở vào một vị trí địa dư không mấy thuận tiện so với Việt Nam.

Dĩ nhiên, để hiểu tường tận bài học phát triển của nước láng giềng này, ta cần phải kể đến những mặt tiêu cực đã phát sinh và tích lũy trong quá trình phát triển của nó. Cái giá đắt nhất mà Thái Lan phải trả là sự gia tăng rất nhanh những căn bệnh trầm kha, vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của nhà cầm quyền, có khi đạt mức không còn cách gì chữa trị nổi, như: nạn tham nhũng trầm trọng, tranh chấp quyền lực và các vấn đề xã hội nan giải (nạn bỏ học ở cấp tiểu học, mại dâm trẻ em, ma túy, AIDS, ô nhiễm môi sinh…). Những suy thoái này hoàn toàn có tính cách phi kinh tế, nhưng lại là những nguy cơ chính làm giảm hoặc làm đứng lại tiến độ tăng trưởng và phát triển của đất nước này.

Như vậy, thiết nghĩ không nên nóng lòng với câu hỏi: bao giờ thì ta bắt kịp Thái Lan, mà chỉ cần đừng đi vào những bước lầm lẫn của quốc gia láng giềng này. Thà chậm một chút còn hơn.

AIT, 1995