← Quay lại trang sách

Cái lễ trong xã hội

Nếu có một ai đó yêu cầu tôi kể về một điều kỳ diệu nhất của Thái Lan, chắc chắn tôi sẽ làm người ấy thất vọng.

Tôi sẽ không trầm trồ về khu hoàng cung tráng lệ của vị vua đương quyền Bhumipol; về những ngôi chùa vàng, chùa bạc với những tượng Phật đứng, ngồi hay nằm đồ sộ; về những lâu đài, dinh thự nghỉ mát xa hoa của các vị vua đã quá vãng vẫn còn đầy những cổ vật nguyên vẹn và vô giá.

Tôi sẽ không bồi hồi trước cảnh hoang tàn của cố đô Ayuttaya, cho đến nay vẫn chưa được phục chế, chẳng phải vì tốn kém cho công quỹ quốc gia, mà để nhắc nhở dân Thái mối hận thua trận trước quân xâm lược Miến Điện hơn hai trăm năm trước.

Tôi sẽ không ngạc nhiên trước những con đường cao tốc “dưới đất, trên không” hiện đại, dọc ngang chằng chịt, phá hỏng gần hết không gian môi trường sinh thái mà vẫn không làm giảm được nạn tắc nghẽn lưu thông trầm trọng thường ngày của thủ đô Bangkok.

Tôi sẽ không nhắc lại nỗi ngao ngán của dân chúng Thái mỗi khi nhìn những cột bê tông khổng lồ của dự án tàu điện treo Hopewell dang dở, đứng trơ vơ giữa trời, dọc hai bên xa lộ dẫn vào thủ đô, như một chứng tích tàn dư của những nội các tham ô và vô trách nhiệm đối với việc công ích.

Tôi sẽ không tự hào đã từng lai vãng ở những siêu thị mênh mông, những khu thương mại cao ngút ngàn với hằng hà sa số chủng loại hàng hóa, người buôn kẻ bán ra vào nườm nượp.

Tôi cũng không hiếu kỳ, hứng khởi về những shows đêm kỳ bí ở khu Patpong, hay những màn diễn lý thú Alcazar và Tiffani của các diễn viên “lưỡng tính” ở Pattaya.

Tôi cũng sẽ không giật mình trước công nghệ tuyệt tác của chiếc cầu treo Rama IX qua sông Chao Praya, đã từng làm tôi bồi hồi khi nghĩ đến những chiếc cầu mong manh tội nghiệp ở quê nhà.

Không. Tất cả những điều “kỳ diệu” đó đã không hấp dẫn nổi một người đang mon men cửa thiền như tôi, ngoại trừ một điều tưởng như bình thường, nhỏ nhen nhưng đã ám ảnh tôi trong suốt sáu năm dạy học ở xứ Thái. Cho đến nay, mặc dù vẫn chưa tìm được một lời giải đáp thỏa đáng, tôi vẫn xem đó là điều đã làm cho tôi ngạc nhiên nhất về Thái Lan.

Trong những buổi sáng cuối tuần nhàn hạ, ngồi nhâm nhi cà phê dưới gốc một cây phượng, sau khi bàn đủ mọi chuyện “trên trời dưới biển”, tôi và các sinh viên đang học ở AIT thường đồng ý với nhau một điều là chúng tôi chưa từng được chứng kiến một cuộc cãi vã, tranh chấp hay đụng độ bằng bạo lực công khai trên đường phố xứ Thái bao giờ. Dĩ nhiên là những cảnh đời thường này có thể xảy ra ở một nơi hay một lúc nào đó, nhưng chắc chắn phải rất hiếm hoi, khác hẳn với hoạt cảnh đường phố hàng ngày ở quê ta.

Kể ra người Thái cũng thật lạ. Cũng sống dưới đủ thứ áp lực nặng nề từ môi trường công và tư cũng như mọi dân tộc trên thế giới, nhưng có điều khác là họ không mang những ức chế cá nhân đó trút lên đầu một ai trên đường phố. Chẳng phải người Thái nào cũng nhoẻn miệng cười trước bất cứ một anh, chị phà-rằng (người nước ngoài) nào như vẫn được tuyên truyền là đặc trưng của “xứ sở của những nụ cười” (the smiling country), nhưng vẻ mặt của họ ít khi mang nét căng thẳng thường thấy như ta. Đám đông Thái ít hiếu động, sôi nổi, ồn ào hơn nhiều so với các dân tộc lân bang. Ở những khu chợ trời lắm khách du lịch vãng lai tuy vẫn có cảnh cò cưa người “nói thách tận mây xanh”, kẻ “kỳ kèo trả giá”, nhưng nói chung không ai tìm cách “đàn áp” ai. Họ ra giá 500 baht, mình trả chơi 100 baht, cũng không lấy thế làm phiền lòng, chạm sĩ diện hay nổi nóng đến độ phải níu kéo, hoặc nhảy xổ vào nhau như thường thấy trước đây ở các chợ Đồng Xuân, Đông Ba hay Bến Thành. Thường họ chỉ cười trả một cách hiền hòa; quá lắm thì cũng chỉ thêm một cái lắc đầu tỏ vẻ “chào thua”. Giản dị thế thôi!

Có người cho rằng đạo Phật có thể là một yếu tố góp phần tích cực vào diễn trình “thuần hóa” dân Thái. Năng tới lui thăm viếng chùa chiền, tụng niệm, trao đổi triết lý đời với sư sãi, chia sẻ miếng ăn thức uống cho người khất thực hoặc sống qua chế độ làm-công-quả-một-tháng ở chùa (chỉ còn trên căn bản tự nguyện) khiến cho người Thái bình thường trở nên hướng thượng, ít xung đột và hòa nhã hơn với đồng hương và đồng loại. Câu nói quen thuộc “mai pen rai” (không có chi) đã trở thành một nguyên tắc sống, giữ cho các mối liên hệ được tốt đẹp và bền vững. Chan hòa như thế nên không ai thấy nhục nhã, thua kém khi phải nhường nhịn kiểu “chín bỏ làm mười”, “một sự nhịn, chín sự lành”, “tránh voi chẳng xấu mặt nào”… như ta. Học đi đôi với hành là vậy!

Người Thái gặp nhau thì hay vái chào, không bắt tay như ta. Cách chào gọi chung là “wai” của Thái cũng na ná như lối vái chào cổ truyền của ta, hiện vẫn còn thông dụng ở Lào, Campuchia và Ấn Độ qua nhiều hình thức cải biến khác nhau. Wai có nhiều cấp bậc. Gặp người ngang hàng thì chỉ cần chắp hai tay vào nhau để trước ngực, miệng nói “Sawadee, krap hay kaa” (Bạn có mạnh giỏi không?). Nếu gặp các huynh trưởng hay khách trọng thì chắp tay vái ngang tầm mắt. Đối với các bậc trưởng thượng (như thầy giáo, sư sãi hay các nhân vật đáng tôn kính) thì tay vái nâng cao tới đỉnh đầu. Riêng đối với vua thì cả thủ tướng lẫn đại tướng đều phải vừa vái vừa lết theo thế ngồi trong những cuộc triều kiến. Tôi đã thấy nhiều đứa trẻ chắp tay vái cha mẹ trước khi ăn cơm. Còn cách gì tốt hơn thế để biểu lộ công ơn sinh dưỡng của các bậc sinh thành?

Lấy lễ mà đối xử với nhau và qui định mối liên hệ theo cấp bậc trên dưới chắc chắn phải là nền tảng điều hòa và duy trì xã hội Thái cho đến ngày nay.

Bangkok, 28/10/1998