← Quay lại trang sách

Chương 11

Ngày hôm sau ở trường, tôi có cảm giác cái đồng hồ trong lớp bị hỏng, và cả ngày hôm đó tôi bị mắc kẹt trong vòng quay tra tấn vô tận của toán học, khoa học xã hội và thể dục. Kể cả bữa trưa và giờ ra chơi cũng giống như phim quay chậm ấy. Cuối cùng thì tiếng chuông tan học cũng reo lên, và tôi chạy thật nhanh ra xe buýt. Tôi vào ngồi đúng hàng ghế thường lệ và chờ Howard. Chắc nó đang chơi vui lắm, vì tụi nhóc dần ngồi kín hết chỗ trên xe buýt mà tôi vẫn chưa thấy nó xuất hiện. Đột nhiên, tôi thấy Audrey Mitchell đi giữa hai hàng ghế, mắt đảo qua lại để tìm chỗ ngồi. Tôi thật không thể ngờ là nó đến ngồi cạnh tôi. Nó lại còn đặt ba lô ở giữa hai đứa để không bị lây chấy rận từ tôi nữa chứ.

“Cậu không được ngồi đây,” tôi nói.

Nó bĩu môi lè lưỡi với tôi, “Được chứ.”

“Không được!” tôi hét lớn.

Nó hơi ngạc nhiên và do dự khi thấy tôi nổi cáu. “Cậu không được giữ chỗ,” nó nói. “Luật ở đây là thế.”

Dứa.

Dứa.

Dứa.

Nhưng cái mẹo ngớ ngẩn của Howard chẳng hề hiệu nghiệm, vì ngay sau đó tôi đã đẩy Audrey ra khỏi ghế, khiến nó ngã chỏng quèo giữa lối đi. Và tất nhiên tôi thấy hối hận ngay khi đẩy con bé đó. Tất cả mọi người đều thích Audrey. Đáng lẽ tôi phải mang kẹo cho nó và nịnh hót về mái tóc đẹp đẽ của nó, thay vì đẩy nó ngã xuống sàn xe buýt. Thật may là Audrey không nóng tính như tôi và ông bố Thích Gây Gổ của tôi. Nó chỉ ré lên một tiếng, đứng dậy phủi bụi, rồi chửi tôi là con điên và chuyển sang chỗ khác.

Đến lúc Howard lên xe buýt, thì cơn giận của tôi đã dịu xuống đôi chút.

Nó ngồi phịch xuống ghế. “Lần này cậu lại tức giận vì chuyện gì đấy?” nó tò mò.

Tôi quay mặt ra ngoài cửa sổ để nó không nhìn thấy khuôn mặt vẫn đỏ bừng vì giận dữ của tôi.

“Tớ chẳng bực tức gì hết,” tôi đáp.

Nó đẩy gọng kính và “Hứ” một tiếng. Sau đó nó lục lọi trong ba lô rồi lôi ra một nửa chiếc bánh kẹp phô mai. Nó lôi miếng phô mai ra cuộn thành quả bóng nhỏ, rồi cho vào miệng. Với bánh mì cũng vậy, nó cũng vê miếng bánh thành những quả bóng nhỏ trước khi ăn.

Khi xe buýt bắt đầu chuyển bánh, tôi nghĩ về việc làm bẫy bắt Xương Chạc, và tôi không còn bực tức nữa. Thay vào đó, tôi chỉ thấy vô cùng phấn khích.

Khi chúng tôi tới nhà Howard, bác gái đang ngồi ngoài hiên cùng Cotton. Bác ấy mỉm cười và vẫy tay chào bác tài xế. Howard, Dwight và tôi cùng ngồi trên mấy bậc thềm khi bác ấy hỏi chuyện ở trường: Cô Willibey đã sửa được cửa sổ thông gió chưa? Bài kiểm tra của Dwight có khó không? Hội phụ huynh lại bán bánh cupcake ở trường à?

Sau đó Howard lôi mấy bài kiểm tra từ trong ba lô ra cho bác gái và cười toét miệng. “Ta-đaaa!” Bác ấy khen nó nhiều đến mức có khi người ngoài nhìn vào lại nghĩ mấy bài kiểm tra đó là vàng ròng không chừng. Tôi có một đống bài kiểm tra điểm kém bị nhét tận sâu dưới đáy cặp nặng trĩu đang đặt trên đùi mình. Tôi ước mình cũng có một bài điểm tốt để được reo lên “ta-đa” như Howard.

Thực ra Howard chẳng cần phải làm Bạn Kèm Cặp của tôi nữa, vì giờ tôi đã biết hết lối đi trong trường và thuộc hết các luật lệ rồi. Nhưng nó vẫn đề nghị giúp tôi làm bài tập. Và tôi luôn từ chối, bởi chuyện đó thì có ích gì chứ? Tôi luôn nhắc nó rằng tôi không hề có dự định nán lại ngôi trường đó lâu. Mỗi lần như thế, nó đều xị mặt và nói, “Cậu không biết được đâu. Có thể lắm chứ.”

Tôi luôn phớt lờ câu nói đó và nhét tập bài kiểm tra điểm kém vào ba lô, ngoài mặt tỏ ra không hề quan tâm. Nhưng khi ngồi trên hiên nhà cùng mẹ Howard, tôi đã ước mình chịu nghe Howard giảng bài.

Sau khi chúng tôi ăn món bánh pudding chuối, Howard và tôi đi ra cái gara xiêu vẹo sau nhà nó. Tôi thề, cái gara đó trông như sắp sập đến nơi thật ấy. Nó nghiêng hẳn sang một bên, và cánh cửa lung lay cố níu vào tường bằng chiếc bản lề duy nhất còn sót lại. Bố Howard ngồi bên chiếc bàn làm việc trong góc gara, bác ấy ngước đầu nhìn khi tụi tôi bước vào. Và khi bác ấy đứng dậy, tôi cứ nghĩ đầu bác ấy sẽ chạm trần nhà vì thân hình bác ấy quá đỗi cao lớn. Bác ấy có đôi bàn tay đồi mồi to, mái tóc đỏ rực và đôi mắt xanh dương tinh anh. Từ người bác ấy tỏa ra mùi cỏ, mùn cưa và xăng dầu.

“Chào hai đứa.” Giọng nói sang sảng của bác trai vang vọng trong bốn bức tường gara, khiến tôi cảm tưởng những chiếc cưa và xẻng cuốc đất treo trên tường cũng lung lay theo giọng nói ấy.

Tôi đã gặp bố Howard ở nhà thờ, khi bác ấy dùng khăn tay lau khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi trong lúc hát bài Giờ danh sách tuyên đọc (When the Roll Is Called Up Yonder), nhưng tôi chưa từng nói chuyện với bác ấy lần nào. Trong lúc những người lớn khác uống cà phê và tám chuyện trong phòng giao lưu, bố Howard cùng một vài bác trai nữa ra ngoài và kiểm tra động cơ xe tải của nhau, hoặc ngồi xem mấy cậu thiếu niên chơi bóng rổ trong bãi đỗ xe.

“Chà, trông cháu kìa,” bác ấy nói với tôi. “Cháu trông giống mẹ mình như đúc ấy.”

Mẹ tôi á?

Tôi thật sự không ngờ đấy.

“Thật ạ?” tôi hỏi lại.

“Chắc chắn rồi. Hai người giống nhau như hai giọt nước ấy.”

“Ý bác là cháu giống bác Bertha ạ?” tôi hỏi.

“Không, bác nói về Carla mà,” bác trai đáp, “Mẹ cháu ấy.”

“Bác quen mẹ cháu ạ?”

“Cũng không hẳn là quen,” bác ấy đáp. “Bác từng gặp mẹ cháu khoảng một, hai lần thôi.”

“Bác gặp mẹ cháu ở Raleigh ạ?”

“Không, ở nhà anh chị Gus và Bertha chứ.” Bác ấy phủi đống mùn cưa trên ngực áo sơ mi. “Cứ ngỡ như mới hôm qua, nhưng bác biết là không phải thế.”

“Ồ,” tôi đáp. Nhưng những suy nghĩ trong đầu tôi bắt đầu rối tung rối mù lên hết cả. Mẹ tôi đến nhà bác Gus và bác Bertha khi nào? Sao không ai kể cho tôi chuyện đó?

“Howie nhà bác kể về cháu suốt đấy,” bác ấy nói, và nháy mắt với Howard.

Tôi ngượng chín mặt.

“Thế hai đứa định bắt con chó săn già nua gầy guộc đó hả?” Bác ấy hỏi.

“Vâng, thưa bác.”

“Tất cả mọi người ở quanh đây đều không ưa nó. Bác chắc chắn đấy. Mọi người đều đã nhẵn mặt nó quanh mấy chuồng gà, hay thùng rác ở Colby rồi.”

“Tên nó là Xương Chạc bố ạ,” Howard nói.

Bác trai cười khúc khích. “Cái tên đó hay đấy.”

“Nó thích cháu bác ạ,” tôi quả quyết.

“Charlie sẽ nuôi nó,” Howard nói. “Nhưng trước tiên tụi con phải bắt được nó đã.”

Bác trai dạy tụi tôi cách chằng dây thiếc vào tấm gỗ và cách lắp bản lề cho cánh cửa. Chỉ một lúc sau, tụi tôi đã hoàn thành chiếc bẫy hoàn hảo cho Xương Chạc. Khi Burl đi làm ở trạm xăng về, ổng đã giúp tụi tôi khênh chiếc bẫy lên thùng xe tải, rồi chở tụi tôi về nhà bác Gus và bác Bertha. Trong đầu tôi, những luồng suy nghĩ vẫn đang đánh nhau điên loạn, có lúc tôi nghĩ về Xương Chạc, lúc khác tôi lại nghĩ đến chuyện mẹ đã đến nhà bác Gus và bác Bertha. Nhưng vì Burl mở nhạc quá to, nên tôi chẳng tập trung suy nghĩ được chuyện gì quá lâu.

Khi về đến nhà bác Gus và bác Bertha, chúng tôi đã đặt chiếc bẫy gần những bụi cây ở mép sân. Trong lúc Howard và tôi lượm lá và cành cây để ngụy trang cho chiếc bẫy, bác Bertha liên tục hỏi Burl cả đống chuyện.

“Cháu nghĩ mẹ cháu có thích ăn mướp tây muối không? Khi nào thu hoạch được bác sẽ làm tặng mẹ cháu.”

“Lenny còn tham gia đội nghi thức diễu hành không?”

“Bà cháu đã phẫu thuật hông chưa?”

Burl liên tục đáp: “Có, thưa bác,” “Không, thưa bác,” và “Rồi ạ, thưa bác.”

Cuối cùng thì Howard và tôi cũng xong việc, và tôi thề, cái bẫy đó gần như vô hình sau khi được chúng tôi gắn lá ngụy trang. Tôi chạy vào nhà lấy hộp thức ăn tôi để dành cho Xương Chạc. Một miếng thịt xông khói. Một chiếc bánh quy. Vài miếng nui xào cá ngừ. Tôi đặt hộp thức ăn tận trong góc chuồng và nói, “Xong rồi, giờ chúng ta chỉ cần ngồi đợi thôi.”