← Quay lại trang sách

Chương 12

Tôi và Howard đợi hoài mà chẳng thấy Xương Chạc xuất hiện. Thi thoảng bác Gus lại ra ngoài ngồi với tụi tôi, nhai một cây tăm và vuốt ve một chú mèo đen gầy gò cuộn người trên đùi bác ấy. Thi thoảng bác Bertha lại ló đầu qua cửa trước và hỏi, “Hai đứa bắt được nó chưa?”.

Khi đó, chúng tôi chỉ đưa ngón trỏ lên môi khẽ “suỵt” với bác ấy, và bác ấy liền che miệng lại, “Ối. Bác xin lỗi nhé.”

Khi mặt trời từ từ khuất dạng sau núi, và những chú đom đóm bắt đầu lập lòe sáng trong khu vườn, bác Gus từ tốn đứng dậy và hỏi, “Cháu có cần bác đưa cháu về nhà không, Howard?”.

“Dạ không, thưa bác.” Howard đáp. “Cháu sẽ đi bộ ạ.”

Tôi thầm thắc mắc không biết bác Gus có nghĩ giống tôi không. Liệu để Howard tự đi bộ cả quãng đường về nhà với đôi chân cà nhắc thế kia có an toàn không nhỉ? Nhưng bác Gus chỉ vươn vai và đáp, “Được rồi,” rồi thong thả quay bước vào nhà.

“Hẹn gặp sau nhé,” Howard nói với tôi rồi tiến về phía đường cái.

Tôi ngồi cạnh chiếc bẫy và ngước nhìn ngôi nhà nhỏ cheo leo bên vách núi của bác Gus và bác Bertha. Sao bác Bertha không kể với tôi là mẹ đã đến đây nhỉ? Mẹ có thích ngôi nhà này không? Mẹ có ra vườn hái đậu que cùng bác Gus không? Mẹ có giúp bác Bertha làm món dưa chuột muối không? Buổi tối mẹ có ngồi ngoài hiên ngắm chòm sao Phi Mã không? Mẹ có ngủ trong căn phòng đầy hũ thủy tinh đó không?

Cuối cùng, tôi quyết định đứng dậy và trở vào nhà. Tôi nhìn mọi thứ trong phòng khách: chiếc ghế tràng kỷ cũ của bác Gus, chiếc bàn nước phủ bụi bày la liệt tạp chí và cốc cà phê, rồi cả chiếc tivi có bát hoa quả nhựa bên trên. Liệu mẹ có từng ngồi trên chiếc ghế đó không nhỉ? Liệu mẹ có từng gác chân lên cái bàn đó trong lúc ngồi xem phim truyền hình trên chiếc tivi đó không?

Tôi nghe thấy tiếng bác Gus và bác Bertha đang trò chuyện ngoài hiên. Thi thoảng, tôi lại nghe thấy tiếng cười giòn giã của bác Bertha lọt qua khe cửa kính. Cuối cùng, tôi quyết định ra ngồi trên chiếc ghế gấp bên cạnh hai bác ấy. Ánh sáng trong bếp nhẹ nhàng tỏa ra bao trùm cả hiên nhà. Tôi hít một hơi thật sâu và hỏi, “Mẹ cháu từng đến đây một lần, phải không ạ?”

Hai bác ấy nhìn nhau. Bác Gus hắng giọng và thay đổi tư thế ngồi. Bác Bertha thì nhoài người về phía tôi, và nhẹ nhàng đặt bàn tay bác ấy trên bàn tay tôi.

“Ừ, mẹ cháu đã đến đây,” bác ấy đáp.

“Ồ.” Tôi quan sát chú mèo đang vờn bướm đêm lượn lờ quanh hiên. “Khi nào vậy ạ?”.

“Từ lâu lắm rồi,” bác Bertha đáp.

“Nhưng là khi nào ạ?”.

“Từ khi cháu còn nhỏ xíu,” bác ấy nói.

“Vậy lúc đó cháu cũng đến đây cùng mẹ ạ?”

Từ dưới rừng cây, một chú ếch ương cất tiếng ộp oạp, vang vọng cả mấy dãy núi. Dưới chân chúng tôi, lũ dế mèn rúc rích trong đám cỏ rối dưới hiên nhà.

Bác Bertha nhìn tôi buồn bã. “Không,” bác ấy nói. “Lúc đó cháu không đến đây cùng mẹ.”

“Vậy còn Jackie?” tôi hỏi. “Chị ấy có đến không ạ?”

“Không, Jackie cũng không đi cùng mẹ cháu.”

“Thế lúc đó cháu và Jackie đang ở đâu?” tôi sốt sắng. “Vậy còn bố cháu? Bố cháu có đến đây không?”

Bác Bertha rướn sát người về phía tôi hơn nữa. Người bác ấy có mùi bột tan*. Bác ấy nói, “Charlie à, mẹ cháu đã đến đây. Nhưng khi ấy mẹ bỏ lại cả cháu, Jackie và bố cháu ở lại. Hôm đó lúc nửa đêm, mẹ cháu đột nhiên xuất hiện trước cửa nhà bác và chỉ mang theo một túi nilon đen chất đầy quần áo.”

Hay còn gọi là hoạt thạch, có trong thành phần mỹ phẩm và phấn rôm trẻ em.

“Mẹ cháu chỉ đến chơi thôi ạ?”, tôi hỏi bác ấy. Nhưng trong thâm tâm, tôi đã biết câu trả lời.

“Không, Charlie ạ,” bác Bertha đáp. “Mẹ cháu quyết định trốn chạy, bỏ lại tất cả mọi người ở Raleigh và dự định không bao giờ quay lại đó nữa.” Giọng bác Bertha đột ngột thay đổi. Chua chát hơn, và pha thêm cả chút giận dữ. Tôi chưa từng nghĩ bác Bertha có thể tức giận đến thế.

“Ồ,” tôi đáp.

Bác Bertha tiếp tục nói, giọng bác ấy trở nên ngày càng chua chát và giận dữ hơn. “Khi bác hỏi mẹ cháu, ‘Em nghĩ sao mà lại bỏ trốn như vậy’, thì mẹ cháu chỉ nhìn xoáy vào mắt bác và nói, ‘Em chán ngấy cuộc sống nhàm chán này rồi. Em sẽ làm lại cuộc đời mình.”

Một tia chớp rạch ngang bầu trời qua dãy núi, kèm theo một tràng sấm nổ đùng đùng.

“Sau đó thì sao ạ?” tôi hỏi tiếp.

Bác Bertha thở dài. “Cuộc đời mới của mẹ cháu không kéo dài lâu cho lắm.”

“Nghĩa là bao lâu ạ?”

“Vài tháng.”

“Nhưng đã có chuyện gì ạ?”

“Bác đã nếu ý kiến của mình về cuộc đời mới của mẹ chậu, và bác nhận ra rằng mẹ cháu không thích điều đó. Mẹ cháu không muốn lắng nghe suy nghĩ của bác về một người mẹ bỏ rơi con mình để trốn chạy. Thế nên mẹ cháu đã đùng đùng nổi giận và quyết định về với các cháu. Nhưng kể từ đó bác không gặp mẹ cháu lần nào nữa.”

Một hàng sấm nữa vang vọng phía dưới thung lũng.

“Bác đã thử liên lạc, nhưng mẹ cháu không muốn nói chuyện với bác,” bác Bertha nói. “Bác đã gửi thiệp cùng với quà cho cháu và Jackie, nhưng mẹ cháu đều trả lại hết. Sau nhiều lần như vậy, bác đành bó tay.” Bác ấy vỗ nhẹ hai đầu gối tôi. “Bác rất xin lỗi khi phải kể cho cháu những điều này, Charlie à.”

Tôi nhún vai, vờ như chuyện đó không phải vấn đề gì to tát. Nhưng có lẽ chiếc cằm run rẩy đã phản bội tôi. Bác Bertha quỳ trước mặt tôi, nắm lấy cả hai bàn tay tôi và nói, “Mẹ cháu yêu thương cháu rất nhiều, Charlie à. Mẹ chỉ thi thoảng lạc lối chút thôi.”

Lạc lối ư? Tôi rất sẵn lòng vẽ ra tấm bản đồ để chỉ đường cho mẹ trở về làm người mẹ đúng nghĩa của tôi.

Tôi đưa mắt nhìn cánh rừng tối dưới chân, và cố gắng truyền tâm tư qua những ngọn cây và nhánh sông, xuống những con đường trong thị trấn và bất cứ nơi đâu có Xương Chạc. Tôi muốn nó biết rằng tôi thực sự cần có nó, và chúng tôi sẽ chung sống cùng nhau thật vui vẻ. Tôi chẳng bận tâm liệu mẹ có nổi giận vì Xương Chạc hay không nữa.

“Không biết tối nay Xương Chạc có đến không bác nhỉ,” tôi nói.

“Nếu nó mà không đến thì nó đúng là đồ đại ngốc,” bác Gus nói. “Nhưng bác có linh cảm là chú chó này không ngốc đâu, Butterbean ạ.”

Lần này, khi bác Gus gọi tôi là Butterbean, tôi không cảm thấy mình như một đứa trẻ nữa, mà thay vào đó, tôi bất giác mỉm cười khe khẽ, dù trong lòng tôi mọi thứ vẫn đang rối bời khi biết được mẹ tôi đã bỏ chúng tôi chạy trốn. Sau đó, tôi chúc bác Gus và bác Bertha ngủ ngon rồi quay lại phòng ngủ. Tôi ngồi bên cửa sổ và ngắm những tia chớp rạch ngang trời. Xương Chạc đang ở đâu nhỉ? Nó đang đuổi bắt gà nhà người ta ư? Hay nó lại đánh nhau với chú chó nhỏ lông đen cạnh mấy căn nhà lưu động? Hoặc, rất có thể lúc này nó đang ở ngay trong chiếc chuồng dưới sân nhà tôi và chén món nui xào cá ngừ.

Tôi trèo lên giường và nghĩ về mẹ. Không biết khi đó mẹ định làm lại cuộc đời như thế nào nhỉ? Liệu mẹ có định ở lại Colby mãi mãi không? Liệu mẹ có định làm một cô giáo, thủ thư, hay mở một tiệm làm đẹp trên đường Black Mountain? Mẹ có định tìm một người chồng mới ít gây gổ hon bố không? Liệu mẹ có sinh thêm em bé, và sau giờ học mẹ có cho chúng ăn những chiếc bánh bông lan được trang trí với những đóa hoa màu hồng và tím không?

Nhưng nghĩ như vậy thì có ích gì? Mẹ đã quyết định trở lại với chúng tôi, và giờ mẹ đang ở đó, còn tôi ở đây, và giờ gia đình tôi đã tan đàn xẻ nghé.

Ngoài kia, mưa đã bắt đầu rơi. Đầu tiên màn mưa chỉ như một màn sương mù mỏng nhẹ, thưa thớt, sau đó mưa ngày càng nặng hạt. Gió cũng mạnh dần lên, và luồng khí lạnh ẩm ngoài trời len vào phòng qua khe cửa sổ. Tôi đột ngột đứng dậy, và tim đập thình thịch. Hôm nay tôi vẫn chưa ước! Tôi bắt đầu lục tìm trong đầu một cách ước nguyện. Giờ trên trời chẳng còn sao nữa. Trong phòng cũng không có bọ rùa. Không có nhánh cỏ bốn lá, đồng xu hay hoa bồ công anh nào hết. Và sau đó... thật khó tin! Một tiếng chim nhại từ đằng xa vọng đến tai tôi. Nghe tiếng chim hót trong mưa cũng là một cách ước nguyện trong danh sách của tôi. Vậy nên tôi đã nhắm mắt và thầm ước điều mình hằng mong muốn.