← Quay lại trang sách

Thư Mùa Hạ

Sài-gòn (không ngày)...

‘‘ Thưa anh,

‘‘ Tôi rất tiếc lại phải viết thư cho anh một lần nữa, với một lời lẽ có nhẽ sẽ thiếu lịch sự đôi chút. Tuy nhiên tôi cũng mong anh bỏ qua và tôi cũng hy vọng đây là lần cuối cùng tôi viết cho anh. Tôi nhớ lần đầu tôi viết cho anh, đó là khi nhận thấy liên hệ giữa tôi và anh có kéo dài thêm cũng vô ích, một phần chính anh muốn dãn ra mà chỉ vì anh không muốn tự ý chấm dứt vì ngại trách nhiệm, một phần tôi tự thấy mình suy nhược quá lắm nếu cứ tiếp tục giữ mãi với anh một thứ liên hệ ngô-không-ra-ngô-khoai-không-ra- khoai và tôi cảm thấy mình cần phải tự cứu vãn lấy trước khi bị sa lầy thật sự. Vì vậy, tôi đã viết lá thư trước gửi đến anh, đồng thời tôi giữ lại một bản cho tôi, không, giữ lại cho con trai tôi thì đúng hơn vì tôi nghĩ rằng sau này, khi lớn lên, nó cần phải được hiểu rõ về cái thân thế của nó. Tôi không muốn nhiều người khác giấu nhẹm những lầm lỡ tuổi trẻ của mình đối với con cái, và có khi đối với cả chính nó. Tôi không muốn như vậy. Tôi phải khác và con tôi cũng phải khác mọi người. Dựa trên cái căn bản về sự chân thực, chúng tôi, tôi và con trai tôi, sẽ kiêu hãnh đi vào cuộc sống. Có thể anh không tin, song rồi anh sẽ thấy.

‘‘ Và hôm nay đây, tôi lại cầm bút viết cho anh, không phải là không có lý do chính đáng. Nhẽ ra tôi nên im lặng thì hơn. Một đôi người bạn đã khuyên tôi như vậy. Nhưng tôi vẫn viết, vì tôi thấy rằng cần phải có lấy một lần cho tất cả, để thanh toán với anh một vấn đề quan trọng đối với tôi thì ít, nhưng đối với tương lai của con trai tôi thì nhiều.

‘‘ Thưa anh, tôi có được nghe những điều anh nói về mẹ con tôi. Theo một người bạn đã cho tôi biết, thì, cho đến bây giờ anh vẫn khăng khăng phủ nhận đứa con trai mà tôi đã cho ra đời cách đây vừa đúng một năm, đứa con trai mà anh từ chối đứng tên trong khai sinh viện cớ vì lý do anh trốn lính, không muốn ra mặt, đứa con trai mà tôi khai theo họ tôi và đã nhân hai chữ ‘‘không cha’’ to tướng trong bản khai sinh của nó và hiện giờ đây nó đang đứng trong chiếc giường nhỏ bé của nó, hai bàn tay mũm mĩm bám chặt lấy thành giường, giương đôi mắt to lớn và hồn nhiên nhìn tôi viết - và anh đã phủ nhận nó là con anh vì căn cứ vào lý do anh mới quen tôi có bảy tháng tôi đã sinh nó, để đi đến kết luận: anh chỉ là nạn nhân của một câu chnyện bỉ ổi, dâm đãng, để có thể phủi sạch hai bàn tay nói rằng mình trong sạch trước mặt người đàn bà mà anh dự định sẽ cưới làm vợ.

‘‘ Thưa anh, thế ngoài lý do chúng ta quen nhau mới bảy tháng (?) anh chẳng còn lý do nào khác nữa hay sao?!?

‘‘ Thú thật với anh, tôi đã bật cười lớn khi nghe người bạn kể lại với tôi điều đó. Và cả một buổi sáng hôm nghe câu chuyện đó, tôi đã vui vẻ ồn ào với các bạn tôi, tôi đã không từ chối một điếu thuốc nào của họ mời tôi mà không kèm theo một nụ cười một nhận xét đầy tính cách tán tỉnh cho họ và chiếc cantine nhỏ bé mới được mở lại ở trường tôi đã vui vẻ rộn rã với tiếng cười của bọn chúng tôi, trong khi ánh nắng nhảy múa trên những tàu lá chuối xanh mướt trong khoảng sân nhỏ trước cantine. Những người bạn của tôi vui khi thấy tôi cùng vui với họ. Tôi tự nhũ trong khi ngồi với họ và nước mắt tôi muốn ứa ra: tôi chưa đến nỗi nào cô đơn. Tôi bỏ giờ học để kéo dài cái giây phút ồn ào đó, để rồi khi trở về, trước nét mặt sáng rỡ của con tôi khi nhìn thấy mẹ nó, tôi đã ôm lấy nó vào lòng và thấy mình bật khóc nức nở lúc nào không hay, khiến thằng bé ngơ ngác, lạ lùng, đưa bàn tay thơ dại lên quờ quạng một cách tình cờ trên những dòng nước mắt của mẹ nó.

‘‘Anh ạ, từ mấy tháng nay, nghĩa là từ ngày tôi viết cho anh lá thư để chấm dứt liên lạc giữa bọn mình, tôi đã cố gắng để không nghĩ đến anh, tôi đã cố gắng để hoàn tất bổn phận mà bất cứ một người đàn bà nào cũng phải có và thiết tha với nó, dù đó là một người đàn bà đoan chính hay không, đó là bổn phận làm mẹ. Tôi đã cố gắng, bằng tất cả những gì mình có, để làm cho con tôi được sung sướng đầy dủ bởi vì tôi tự biết rằng, tôi không chỉ được làm mẹ nó mà thôi, mà tôi còn phải lãnh luôn cả vai trò một người cha đối với nó. Vả lại, cũng vì vấn đề tự ái của tôi đối với những người trong gia đình, tôi hiểu là mình không được quyền đầu hàng, không được quyền tỏ ra xao lãng với đứa con thiếu may mắn, dù rằng tôi quan tâm đến nó bởi một phần lớn, tôi tha thiết với nó vì nó là máu là thịt của tôi, vì nó là công trình sáng tạo của tôi, và vì nó mang cái hình ảnh của người đàn ông đã mở cho tôi cánh cửa để tôi bước vào thế giới đàn bà, cái thế giới mà bấy lâu nay tôi không biết đến và cố tình phủ nhận vì sự hạn hẹp, gò bó của nó, cái thế giới mà bây giờ tôi mới bắt đầu khám phá ra sự kỳ diệu của nó, cái kỳ diệu mà tôi đã nghe ngóng trong suốt chín tháng trời mang thai nằm một chỗ. Thưa anh, đó là điều làm cho tôi có cảm giác biết ơn anh. Không, biết ơn người đàn

ông đã cho tôi đứa con (vì thật là vô ích cho tôi nếu anh cứ khăng khăng không nhận sự biết ơn đó!), và biết ơn con trai tôi. Ngoài ra, tôi cũng còn biết ơn cuộc đời (dù rằng cái xã hội trong cuộc đời đó vẫn chẳng thích chấp nhận một người đàn bà vô kỷ luật như tôi), và biết ơn Tạo hóa nữa.

‘‘ Vâng, quả thế. Tôi đã cố gắng tranh đấu tạo cho mình một chỗ đứng dưới ánh mặt trời này, với tất cả phần nghị lực còn sót lại sau thời kỳ sinh nở. Vì tôi biết rằng tôi đã chấp nhận và tôi muốn chứng tỏ cho mọi người quanh tôi biết là tôi lầm lỗi mà không sa đọa. Và lạ lùng thay, anh ạ, tôi lại cảm thấy mình trở nên vững vàng, lạc quan, tin tưởng - tin tưởng cuộc sống, tin tưởng thiên nhiên, tin tưởng con người, trong đó kể cả anh. Như một đứa trẻ lần đầu tiên khám phá ra sự hiện hữu của thế giới kỳ diệu quanh nó, tôi được sinh ra đời thêm một lần nữa với một niềm tin hoàn toàn mới mẻ, cô đọng và vững chắc. Tôi đi làm để mưu sinh, vâng, mưu sinh, vì tôi đã ra đời với hai bàn tay trắng, với một số những lỡ lầm tuổi trẻ đủ để phong phú hóa cuộc sống, và nhất là với một đứa trẻ con còn non nớt ở dưới tay, một đứa trẻ con cần có tôi đùm bọc, giúp đở, hướng dẫn. Và đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy mình thật sự trở nên cần thiết ; dù là đối với một người. Tôi thành thật xúc động về điều đó. Tôi thu xếp công việc để có thể tiếp tục theo học trở lại vì tôi biết rằng tôi cần phải tiến xa hơn nữa, với hình ảnh con tôi như một khuyến khích lớn lao lần đầu tôi có được. Tôi sung sướng nhận ra mình còn trẻ. Vâng, hai mươi ba tuổi đầu đã già gì, dù rằng tâm hồn mình có trở nên già dặn - Nhưng anh tính, có người trẻ tuổi nào ở cái xứ chiến tranh liên miên này mà không trở nên già đi đâu? Cả anh, cả tôi, cả những người bạn trẻ của anh và những người bạn trẻ của tôi. Tuổi trẻ của anh và của tôi đã hoang mang, khổ cực nhiều rồi, ích gì đâu nếu cứ tiếp tục làm khổ nhau nữa, phải không anh?

‘‘Tôi đã quên được anh, đã gần quên được những điều phiền nhiễu chúng mình đã gây cho nhau, đã có thể coi trường hợp không-chồng-mà- có-con của mình như một cái gì hết sức tự nhiên, đã tạo được sự hăng hái trong công việc, và cả gia đình tôi, bạn bè tôi - những người trước sau vẫn dành cho tôi một sự cảm mến đặc biệt - đã coi sự có mặt của con trai tôi như một điều hết sức tự nhiên, đáng chào đón. Vâng, sự thật là như vậy. Con trai tôi đã tỏ ra xứng đáng với cảm tình của ông bà, các cậu các dì, các chú các bác (những người bạn của tôi), bởi nó là một đứa trẻ khỏe mạnh, xin xắn, tươi tỉnh, lanh lẹ, hứa hẹn một tương lai sáng sủa của một đứa trẻ mau trí khôn, biết tháo vát. Và tôi, như tất cả những người mẹ bình thường khác, vô cùng hãnh diện về sự có mặt của nó. Tôi không phàn nàn gì cả, và cũng chẳng ai nghĩ đến chuyện phàn nàn gì tôi nữa hết. Tôi nghĩ đến một cuộc sống độc thân, tôi mơ đến lúc tôi học thành tài và con trai tôi đã lớn... Tôi tự thấy mình bằng lòng với cuộc sống của mình, của mẹ con tôi. Nhưng anh, anh cố tình gợi lại chuyện cũ, không trực tiếp, nhưng gián tiếp bằng những tuyên bố này khác, thì làm sao tôi có thể không cảm thấy bị liên hệ cho được?

‘‘ Thưa anh, nếu quả anh muốn như vậy, thì tôi cũng xin được tiếp chuyện với anh, một lần cho tất cả.

‘‘Tôi thiết nghĩ người có quyền lên tiếng, hoặc kể lể về tình trạng của mình trong bất cứ một liên hệ không chính thức nào và kết quả là một đứa con chào đời, người ấy phải là người đàn bà. Nhưng trong câu chuyện của chúng mình, tiếc thay, chính anh lại là người lên tiếng trước tiên. Thưa anh, anh có thể nói về tôi thế nào, có thậm tệ đến đâu, cũng được, không sao. Tôi sẵn sàng bỏ qua, vì tôi mắc một cái ‘‘ tính xấu’’ của người đàn bà Việt (theo như lời một người bạn của anh đã một lần trách tôi) là hay bỏ qua một cách dễ dãi. Nhưng có một điều tôi không thể chấp nhận được, dù với anh hay bất cứ một người nào khác, là sự xúc phạm đến con trai tôi, kẻ mà tôi đã dồn mọi сố gắng trong cuộc sống lòng thương yêu của mình cho nó. Nói thật với anh, tôi trọng bố mẹ tôi, anh chị em tôi, ban bè tôi, nhưng họ cũng chẳng tự cho phép mình nói những câu có thể xúc phạm tới con tôi, đến vị thiên thần nhỏ bé vô tội của tôi, huống hồ là anh, một người mà tôi đã loại ra khỏi phạm vi giao thiệp của tôi vì cần thiết, mặc dù... mặc dù đã hơn một lần tôi tự nhủ với tôi, khi đối diện với khuôn mặt rạng rỡ của con trai tôi, là tôi vẫn nghĩ đến anh với một cảm giác vừa êm đềm vừa chua xót... Và tôi muốn duy trì tình trạng như vậy. Có nhẽ nào anh nỡ tìm cách phá hoại tan tành những điều tốt đẹp cuối cùng đó của tôi, của con trai tôi? Chúng tôi không làm gì anh cả... Chúng tôi có làm gì anh đâu?!... Tôi vẫn cầu chúc anh sẽ gặp được người đàn bà hiểu được anh hơn tôi, chiều chuộng được anh hơn tôi. Anh chẳng chịu hiểu như vậy. Anh chẳng chịu hiểu gì cả, Bởi bản tính của anh như thế: không bao giờ chịu nhìn vào mình, và cố gắng tránh được nhiều trách nhiệm chừng nào hay chừng ấy. Tôi biết là mình có nói những điều này ra với anh cũng chẳng ích, gì hết. Bởi anh đã thế rồi. Cuộc sống đã biến anh trở nên như vây rồi. Anh đã đi vào cuộc sống từ chỗ hoang mang, không định hướng, anh đã va chạm với nhiều cái xấu xa của cuộc đời trong khi đó anh thiếu hẳn một thứ tình thương đầy tính cách dìu dắt cần thiết của một người mẹ, anh đã và đang nhìn cuộc sống từ cái vị trí của một con người đã khổ cực mà không có lấy một niềm an ủi, và từ đó anh trở nên lệch lạc. Anh không thể quan niệm được anh lại là một kẻ chủ động trong bất cứ một sự việc gì, ngay cả trong phạm vì tình yêu, và vì quá quen với tình trạng làm-một-nạn- nhân, anh luôn luôn cho rằng mình vô tội, mình trong sạch, mình không lầm lỗi: nhưng tôi thương anh, đôi khi tôi thấy mình yêu anh nữa, chính vì tôi hiểu rằng bên dưới cái vỏ lệch lạc cứng ngắc kia, anh còn có được sự chân thực, ít ra anh chân thực ở chỗ anh không tự biết về những điều tôi đã phân tích ở trên. Tôi còn nhớ những lần nằm với anh, nghe anh kể chuyện về những mối tình đã qua của anh về một thiếu nữ đã tự tử nhưng được cứu sống vì bị gia đình cấm yêu anh, và một thiếu nữ khác đã bị bà mẹ cấm yêu và nhận lời lấy anh. Tôi hiểu rằng qua con người anh, cuộc sống tự nó đã có những lầm lỡ vì nó đã chẳng biết nhận chân giá trị của anh, nó đã hất hủi anh khiến anh trở thành một thứ bi quan chán ghét tất cả, chán ghét mọi người, chán ghét chính mình với một ý thức mơ hồ về những điều đó mà không tự biết lý do - ít ra đó là những điều tôi biết đựợc xuỵên qua câu chuyện về những người đàn bà đã đến trong cuộc đời anh trước tôi. Tôi cũng chẳng may mắn hơn gì anh với một hoàn cảnh chẳng đẹp đẽ gì. Nhưng tôi khác anh ở chỗ có được cái tính chất mềm mỏng của người đàn bà. Vả lại tôi còn có mẹ tôi bố tôi với một bầy anh chị em đông đảo. Nhưng bố mẹ tôi là những người thuộc thế hệ trước, chẳng bao giờ chịu hiểu được tuổi trẻ khốn khổ bây giờ và những cố gắng đi tìm cho mình một lối sống mà trong đó nó có thể thích nghi dễ dàng và thấy hăng hái làm việc. Nhưng chẳng thể cứ đổ lỗi cho thời đại, cho chiến tranh. Phải nhận rằng tâm hồn của bọn anh chị em tôi có điêu đứng già nua, và cuộc sống của chúng tôi có vô kỷ luật, một phần lớn cũng do ở cuộc hôn nhân miễn cưỡng và ý thức thất bại của bố mẹ tôi trong suốt thời gian, ông bà sống chung với nhau. Sự chịu đựng của con người cũng có hạn. Và phần còn lại, anh em chúng tôi lãnh đủ.

‘‘Nếu anh đã không được cái may mắn sống gần gia đình và chịu ảnh hưởng của nền giáo dục kỹ lưỡng, thì tôi cũng chẳng khác gì anh. Tôi mất dạy từ khi mình bắt đầu biết suy nghĩ và đọc sách, từ khi bước vào cuộc sống và khám phá ra khối óc mình bất lực và thể xác mình nhiều đòi hỏi.

‘‘ Tôi quen được với anh trong thời kỳ hoang mang nhất của cuộc sống hiện sinh của mình và còn rất nhiều cái của cuộc sống mà mình chưa khám phá ra.

‘‘ Buổi sáng hôm ấy là một buổi sáng vào cuối tháng sáu. Tôi ra khỏi giấc ngủ sau một đêm truy hoan cuồng nhiệt với một bọn bạn vừa trẻ vừa mất dạy như tôi, Tôi cảm thấy mỏi mệt. Có phải tháng sáu là mùa hè? Sống ở miền mưa nắng hai mùa này, giữa một thành phố xô bồ đầy nắng, bụi và người, tôi chẳng còn ý niệm gì về thời tiết, mùa màng nữa. Đó là một điều thiệt thòi vô cùng: vắng thiên nhiên và ý niệm về nó, người ta sinh hoạt trong một vùng gần như một thứ trầm luân, với một vẻ mệt mỏi. Những buổi sáng tôi đã cố gắng đến trường để có một lý do ra khỏi nhà. Song tháng sáu là mùa hè - cứ tạm cho đó là mùa hè vì là kỳ bãi trường. Tôi không có lý do gì để ra khỏi nhà, ngoài cái hẹn với một người bạn tại chỗ anh làm việc để được giới thiệu với anh, người mà tôi mới chỉ được biết qua những nét vẻ bạo tiệt ít ra có một cái gì đó trùng hợp với đường nét mà tôi vẫn xử dụng. Tôi trở dậy, sửa soạn đến chỗ hẹn với các anh, mặc dù trong thâm tâm tôi chẳng thấy một hứng thú nào. Tôi đến vì nghĩ là đã để cho các anh lỡ đợi một lần. Tôi bằng lòng là mình đã không có gì gọi là kiểu cách trong buổi đầu gặp mặt. Tôi mỏi mệt để có thể kiểu cách trong cuộc sống, cái cuộc sống mà dạo đó tôi chả hề có một ý niệm gì về những sự cố gắng. Có nhẽ đó cũng là do một phần lớn ở lỗi tôi đã thành công hơi sớm và dễ dàng trong việc học mà không phải chịu đựng một lần thi hỏng nào. Tôi sinh ra coi thường những cố gắng. Từ chỗ đó tôi không có dự định nào nhất định cho tương lai. Rời khỏi Trung học, tôi lang thang qua mọi phân khoa. Chả đi đến đâu. Tôi chán nản, buồn bã. Sống phá phách hơn là xây dựng đồng thời mơ hồ cảm thấy rằng rồi cũng có lúc mình cần phải thay đổi đường lối sống. Tôi không biết phải thay đổi ra sao. Tôi không thể tự thay đổi. Có nhẽ cần phải có một cái gì đó xẩy ra cho tôi sáng mắt ra và hồi tỉnh cơn mê vô định hướng, vô mục đích, vô lợi ích này: Tôi không hiểu được cái gì đã thúc đẩy tôi đến gặp anh mà lại không là một người đàn ông nào khác. Tôi nghĩ, nếu tôi không gặp anh, nếu tôi đã gặp một người đàn ông khác, có nhẽ mọi sự đã thay đổi hoàn toàn và hôm nay đã chẳng phải là hôm nay của tôi, của riêng tôi, và tôi đã chẳng có được cái lúc mắt mình sáng ra bởi đã phải tự ý cố gắng tranh đấu, và tôi đã chẳng được cái hãnh diện như tôi hiện đang có về những gì mình đã trải qua một cách đầy nghị lực, không đòi hỏi ai ngoài sự bền bỉ của chính mình. Tôi nhớ đã đọc được một câu thơ: ‘‘Sự đau khổ cùng cực đã trở thành niềm hoan lạc’’. Đó là điều duy nhất tôi biết chắc là thật, chứ không phải là một cách nói tránh để tự an ủi.

‘‘ Vâng, thưa anh, đúng như vậy. Tôi xin phép anh, một lần cho tất cả, để nhắc lại tuần tự, theo thời gian, những kỷ niệm tôi đã được cái hân hạnh có với anh. Một lần cho tất cả và tôi xin thề với anh dù sau này con trai tôi lớn, có đòi tôi kể lại, tôi cũng sẽ chẳng kể lại cho nó nữa bởi vì chính anh đã phủ nhận tất cả, kể cả sự kiện nó-là-con-anh,

‘‘ Đó là một buổi sáng như mọi buôi sáng, nhưng thú thật với anh, trong suốt thời gian nằm một chỗ để đợi sinh nở, tôi chợt khám phá ra là tôi không thể quên, không bao giờ có thể quên cái buổi sáng ‘‘ mùa hạ’’ đó. Tôi xin phép được ‘‘dài dòng kể lể’’ với anh về những chi tiết xung quanh cái buổi sáng mùa hạ vừa mệt mỏi vừa êm đềm đối với tôi ấy. Một phòng trà có gắn máy lạnh và bọc kính ngăn tiếng động xung quanh tại một ngã ba đường một con đường thanh lịch nhất Sài- gòn. Tôi ngồi đấy, lơ đãng nghe các anh nói chuyện: anh và hai người bạn nữa. Tôi không tham dự vào câu chuyện của các anh được bởi trong đó có những nhân vật hoàn toàn xa lạ với tôi. Các anh cuời vui vẻ. Nhưng tôi chợt nhận thấy trong đôi mắt mờ mịt của anh có một vẻ buồn - (đôi mắt đó con trai tôi đã được thừa hưởng, song đôi mắt của con trai tôi chưa biết đến những phiền muộn buồn tủi cuộc đời. Chúng long lanh, đen láy, trong sáng, biểu lộ một thế giới trẻ thơ, êm dịu, thần tiên).Tôi cảm thấy anh thật xa lạ, thật gần gũi với tôi. Tôi cũng cảm thấy anh thật buồn bã thật bơ vơ. Tôi trạnh lòng nghĩ đến mình và đưa mắt nhìn vơ vẩn lên vòm cây lá me có từng khóm lá trông rưng rưng như những lát sơn dầu của Cézanne.

Tôi cũng không hiểu sao lúc ấy tôi lại nghĩ đến Cézanne, Cézanne với những lát sơn buồn buồn như chứa đựng bên trong cả một sức sống mãnh liệt sẽ bùng vỡ một lúc nào đó không biết được. Có phải cái tuổi buồn của chúng mình cũng không khác những lát sơn của Cézanne là mấy? Có phải đó là điều duy nhất để tuổi trẻ hôm nay hướng vào và trông đợi? Có phải... Và nắng màu vàng, nắng đa tình nhảy múa và sưởi ấm trên nỗi buồn của tuổi trẻ, trên những vòm lá me màu xanh mướt.. Và anh ngồi đó và tôi ngồi đây chờ đợi đợi chờ... Và những người ngoại quốc thân xác to lớn lượn qua lượn lại bên ngoài khung kính cùng với xe cộ, lặng lẽ như trong một khúc phim câm

Và cũng chính ở lần đầu quen biết với anh, chúng mình gần nhau. Tôi xúc động mãnh liệt trong khi ấy. Chưa bao giờ xúc động đến như vậy. Cho đến bây giờ, đôi khi tôi vẫn tự hỏi: có phải sự xúc động mà tôi có lúc bấy giờ là vì qua sự giao hợp của chúng mình, đứa con mà tôi mong đợi trong tiềm thức đã thực sự khởi đầu sự sống của nó? hay chính vì việc anh bật khóc nức nở trên thân thể tôi? (Vâng, tôi không quen được sự kiện đó. Lần đầu tiên một người đàn ông đã khóc trên tôi. Anh vội vàng xin lỗi tôi. Nhưng tôi, tôi không cảm thấy giận hờn anh. Tôi chỉ thấy thương cho những thân thể tội nghiệp của chúng mình)...

... Công việc quá bận rộn khiến hôm nay tôi mới có thể lại ngồi hầu chuyện tiếp với anh. Con tôi vừa đi lên nghĩ mát tại nhà hai bác nó ở Suối-tre, một đồn điền cao su cách Long khánh chừng năm cây số. Nó đi làm nhà vắng hẳn đi. Bố tôi nhắc đến đó. Mẹ tôi, các anh em tôi kêu nhớ nó. Cố nhiên tôi cũng chẳng hơn gì họ. Mọi buổi tối trước khi đi ngủ, nó thường quấn lấy tôi, đòi chính tôi phải nằm với nó, nó mới chịu ngủ, sau khi nghe tôi hát cho nó nghe những câu hát thời tiền chiến. Tôi không thuộc nhiều bài hát. Nhưng đôi ba bài thôi, như những bản Tống biệt, Một lần cuối, Thiên thai, cũng đủ cho nó. Và tôi cũng chỉ có bấy nhiêụ thôi. Khi nó ngủ rồi, tôi có thói quen làm việc đến mười hai giờ, một giờ khuya mới đi ngủ. Thường là tôi mệt nhoài sau đó và ngủ thiếp đi một cách dễ dàng. Nhưng tối hôm qua thì tôi bắt gặp mình trằn trọc vì thiếu hơi thở đều nhẹ thơm tho của con. Tôi tự hỏi không biết nó có nhớ tôi? Tôi mong nó sẽ không nhớ vì mải vui với các anh các chị ở Suối-tre. Anh chị tôi không thiếu gì con. Nhưng vẫn muốn đón thêm nó lên chơi cho vui. Đây chẳng phải là lần đầu tiên nó lên đấy chơi, bởi khi tôi mang thai nó được bảy, tám tháng, tôi đã lên đấy vì trong thời kỳ tôi bụng mang dạ chửa mọi người đều xa lánh tôi. Tôi chấp nhận điều đó một cách thản nhiên. Cả anh nữa, anh cũng sợ tôi. Tội nghiệp cho anh. Tôi hiểu rằng con người của anh sợ nhiều cái mà anh không tự biết. Anh sợ gia đình tôi làm dữ có hại cho thanh danh của anh. Anh sợ đến cả những đứa em trai em gái của tôi. Anh tỏ vẻ lúng túng mỗi lần tình cờ đến thăm tôi (dạo tôi ở nhờ nhà có em: một căn phòng nhỏ ở miệt Chí-hòa) mà đụng mặt với bọn em tôi. Chúng nó lấy làm lạ tại sao tôi lại có thể chấp nhận được anh trong khi có nhiều người khác có địa vị hơn muốn hỏi tôi. Tôi vẫn bảo với chúng nó; Chúng mày làm sao hiểu được. Tôi thương anh chính ở những khuyết điểm mà anh có. Khi còn liên lạc với anh, tôi vẫn thầm nhủ may ra tôi sẽ giúp được anh thoát ra khỏi những mặc cảm nặng nề của cuộc sống. Và ngược lại, nhờ ở sự ràng buộc có với anh, chính tôi cũng sẽ tìm lại cho mình được sự quân bình trong cuộc sống vốn dĩ nhiều bất thường của tôi... Nhưng anh không nghĩ như vậy. Anh đâu thấy được những nhược điểm của anh. Anh thích làm ra vẻ đàn ông. Anh khinh miệt những điều một người đàn bà nói ra. Anh thường gạt tôi đi mỗi khi tôi định mở đầu câu chuyện, bằng nhận xét mà thực sự không nhận xét gì cả: ‘‘ Ôi! Đàn bà lộn xộn!’’. Theo anh, thì tôi lộn xộn, mẹ tôi lộn xộn, các chị tôi lộn xộn mà thực sự thì họ, mẹ và các chị tôi, đã không hề nói một lời phiền trách anh trước mặt tôi. Họ chỉ tìm cách giúp đỡ tôi với tất cả cố gắng và thương yêu. Tôi thầm hiểu rằng tôi với anh sẽ chẳng bao giờ hiểu được nhau, sẽ chẳng bao giờ nữa hết.

Rạn nứt đã nằm trong cử chỉ của cánh tay gẩy guộc của anh vung lên, khoát rộng rồi hạ xuống khuỳnh ra với hai bàn tay chống cạnh sườn trên cái thân hình mỏng khòm xuống của anh, rạn nứt đã nằm trong giọng nói đứt quãng và đôi mắt từ chối nhìn vào sự thật của anh, rạn nứt đã nằm trong chính sự bất lực của tôi để mở một con đường thông cảm với anh, rạn nứt đã làm tôi câm nín và chỉ còn biết khóc lặng lẽ trong những đêm dài không ngủ đươc vì cái thai hành. Tôi không ân hận vì những gì đả xảy ra. Nhưng tôi ân hận vì những cái gì sẽ xảy ra mà tự trong hiện tại mình đã biết гõ là mình bất lực không thể cứu vãn được nữa.

‘‘ Tôi bỏ Sài-gòn lên Suối-tre nằm dưỡng sức do một lá thư của ông anh rể gửi về. Đó là người duy nhất trong gia đình hiểu được tôi có những ý nghĩ, những ước vọng và những lý do để liều lĩnh hầu tạo cho mình một thế đứng. Tiếc thay anh ấy lại chỉ là anh rể tôi. Nhưng điều đó cũng chẳng can hệ gì. Lá thư anh viết cho tôi, tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần và có thể nhớ không sót một chữ - đó là điều hiếm có ở tôi vì bình thường tôi là một người có trí nhớ rất kém:

‘‘ Em,

‘‘ Anh chị vô cùng bàng hoàng được biết em

sắp bước sang con đường làm mẹ. Cho đến bây giờ anh chị không biết nên vui hay buồn vì không biết nội tính của em ra sao.

‘‘ Sau khi đến thăm em, anh có cảm giác em buồn lắm, nhất là nụ cười vui tươi của em trước kia biến mất và em có thêm nét mặt một thiếp phụ. Em buồn vì gia đình hay buồn vì sự việc đã xảy ra ngoài ý muốn của em? Nếu vì gia đình em nên biểu là không ai muốn bị đặt trước một sự đã rồi, vả chưa có ai được tập rượt theo cuộc cách mạng như em đã làm, nên phản ứng đầu tiên của họ là phản đối, đó là một lẽ dĩ nhiên mà em phải chấp nhận vì không phải ai cũng là Georges Sand cả. Còn nếu không phải là ‘‘ngoài ý muốn của em, thì em có thể coi anh là ‘‘đồng minh của em...’’

‘‘Ở cuối thư, anh tôi mời lên nghỉ trên nhà anh. Có nhẽ đó là điều cảm động nhất tôi có được sau cái xúc động khi tôi biết tôi sắp làm mẹ, xúc động một cách rất đàn bà, rất êm dịu.

‘‘ Tôi nói với anh là tôi lên nghỉ ở trên đó và có thể sẽ sinh ở trên ấy luôn. Anh vội vã đồng ý. Tôi thù anh đồng thời tôi thương hại anh. Tôi đã lôi cuốn anh vào một cuộc phiêu lưu nhưng đâu biết trước được là anh chán nản muốn quay ra và bỏ cuộc. Nhưng trễ rồi, anh ạ. Chúng ta bắt buộc phải dấn bước về phía trước. Bởi nếu có thể quay trở lại được thì tôi đã xin như cô bé Daniel trong phim ‘‘ Les rivalités’’, là cho được bé lại khoảng mười tuổi và có đủ cả cha lẫn mẹ - đủ theo nghĩa hoàn toàn của nó. Tôi thương hại anh vì đã khôhg thể quay trở ngược lại thời gian, anh lại cũng không có được cái ‘‘đức tính’’ chấp nhận mọi sự một cách thản nhiên, bởi nếu anh cứ ngẩng cao mặt lên, sửa lại người cho thẳng và bước đi vững chãi, đố ai dám làm gì anh, hay nếu nó có làm gì anh thì cũng chỉ làm một cách lén lút, sau lưng anh mà thôi. Không, nếu anh đã như vậy thì đâu đã có chuyện và tôi sẽ mất đi mất một dịp may bằng vàng là tự thử thách và đồng thời rèn luyện tính chịu đựng của mình. Nếu phải cảm ơn, thì anh là người tôi phải cảm ơn đầu tiên, vì anh đã ban cho tôi một hoàn cảnh để tìm về với con người thật của mình mà bấy lâu tôi không biết đến, vì anh đã ban cho tôi một đứa con (dù rằng cho đến bây giờ anh cố tình phủ nhận), vì anh đã giúp tôi một dịp để đi đến quyết định sống độc thân mà từ lâu nay tôi chỉ mới có ý nghĩ. Và tôi cảm ơn cuộc đời, cám ơn những người bạn đã chạy đến giúp đở tôi trong thời kỳ thai nghén, và nhất là cảm ơn bố đỡ đầu của con tôi là người bạn đã quý mến tôi từ hồi nào đến giờ vẫn vậy. Với mớ hành trang đó, với sự có mặt của con trai tôi, tôi nghĩ rằng, dù mới hai mươi ba tuổi đầu, tôi đủ vững vàng để đi vào cuộc sống. Và với tôi, điều hệ yếu vẫn là sống - sống thơ mộng và bền vững như Thiên-nhiên,

‘‘ Thưa anh, vâng, tất cả đầu dây mối rợ là một buổi sáng mùa hạ, Bây giờ giữa tôi và anh chẳng còn gì, ngoài hình ảnh anh phảng phất qua nét mặt của con trai tôi là còn nhắc nhở tôi đến anh. Tôi đã hạ sinh nó vào đầu tháng ba, ngày sáu tháng ba. Tính ra vừa đúng chín tháng. Anh vẫn chối dài là bảy tháng. Tôi tự hỏi điều đó làm lợi gì cho anh? Phải chăng để cho anh có thể vỗ ngực nói rằng anh chỉ là một thứ nạn nhân, hoàn toàn bị động trong câu chuyện tình giữa chúng mình? Để anh có thể tự chứng mình anh là kẻ không hề lầm lỡ, là anh hoàn toàn trong sạch trước mặt người đàn bà mà anh sẽ cưới làm vợ? Ô hay, sao chúng ta có thể khác nhau làm vậy và đến bây giờ tôi mới nhận ra nhỉ? Trong khi anh ghét những lỡ lầm bao nhiêu (vì anh đã có chúng) thì tôi lại khác hẳn, tôi thương chúng, tôi tội nghiệp cho chúng, tôi quý chúng, chẳng phải để mình cứ việc lỡ lầm cho thật nhiều, mà chính vì qua những lỡ lầm đó, tôi thấy rõ được tôi hơn, tôi biết rõ được tôi muốn gì, tôi khát vọng ra sao. Trong lỡ lầm và sự đau khổ, tôi tự thấy tâm hồn mình được nâng lên nâng lên. Tôi không quan tâm đến những phán đoán, xét xử của những người quanh tôi vì anh ạ, kinh nghiệm cho tôi biết, người chỉ trích để giúp ta tiến thì ít, ít lắm trong cái xã hội này, nhưng người chỉ trích để dìm ta xuống, để nhục mạ ta thì nhiều, Những câu đó có vẻ ‘‘quốc văn giáo khoa thư’’ quá phải không? Nhưng không sao. Nếu còn tin tưởng ở Thượng-đế, tôi sẽ cảm ơn Người đã ban cho tôi một cuộc sống gồm có những dịp lỡ lầm, cộng thêm với một chút hơi nhiều tình cảm, cộng thêm với một chút hơi nhiều lý trí, cộng thêm với một chút hơi nhiều lòng tham vọng và ý chí hiếu thắng, ngạo mạn.

‘‘ Anh muốn khước từ một lần cho tất cả, rằng con tôi không phải là con của anh ư? Được, điều đó không khó. Tôi cũng chẳng mong gì nó có liên hệ đến anh, (nhưng tiếc thay trong huyết quản nó đã mang dòng máu của anh!) Nó quá lanh lợi và tinh ranh đôi khi có vẻ nhõng nhẽo và lẳng lơ nữa, đến nỗi gia đình tôi không ai là không thích và thương nó và đôi khi tình thương đó được bộc lộ một cách quá trớn chẳng hạn như khi họ mắng yêu nó: ‘‘ Rồi lại giống cái thằng bố mày!’’. Tôi cười trìu mến với con và chỉ lúc đó, ý nghĩ tôi chợt hướng về anh trong khoảnh khắc với một chút gì êm dịu, để rồi liền sau đó, tôi cương quyết với chính mình, rằng tôi sẽ dạy dỗ, luyện tập cho nó. Có thể nó sẽ giống anh hơi nhiều, nhưng tôi tin tưởng một cách sắt đá là hoàn cảnh và giáo dục sẽ biến đổi bản tính người ta phần lớn. Vả lại, nó còn có tôi, nó còn có mẹ nó thương yêu và dắt dìu nó trong cuộc sống này.

Vả lại, biết đâu cái thế hệ của nó sẽ khá hơn thế hệ của chúng ta hiện tại: nó sẽ biết rõ những gì nó cần phải làm, những gì đất nước của nó mong mỏi ở nó mà không phải là những câu nói sáo rỗng mà hiện nay chúng ta, tôi, anh và những người bạn của tôi, những người bạn của anh, đang phải nghe, nghe với vẻ ơ thờ, chua xót, hoang mang....

‘‘ Thưa anh, chỉ còn vài ngày nữa là sinh nhật đầu tiên của con tôi. Đối với tôi, đó là một ngày thiêng liêng, thiêng liêng hơn cả ngày sinh nhật của chính tôi, thiêng liêng hơn cả ngày sinh nhật của Thượng đế. Có thể tôi sẽ mừng nó bằng một bữa tiệc với đông đủ bạn bè. Có thể tôi sẽ mừng nó bằng một buổi tối tôi ngồi uống rượu một mình để ngụ ý bảo với nó rằng tôi nghĩ đến nó một cách trọn vẹn, và đời tôi, tôi sẽ dành cho nó trọn vẹn từ đây. Nếu anh muốn, tôi sẽ, đồng thời mừng sinh nhật của nó, tuyên bố cho những người bạn của tôi và của anh biết đứa con của tôi là do tôi tự tạo ra, anh không hề tham dự vào cái ‘‘lỡ lầm’’ đó. Bằng không, chừng nào tôi còn im lặng về câu chuyện giữa tôi và anh, chừng nào tôi còn tự nuôi lấy con tôi và không nhờ vả chút gì ở anh, chừng ấy anh cứ yên lặng cưới người đàn bà mà anh dự định hỏi làm vợ và hưởng cái hạnh phúc của anh, đừng tìm cách tuyên bố hay phủ nhận gì cả.

‘‘Hoặc là cho tôi được giữ những kỷ niệm êm đềm về một buổi sáng mùa hạ đã qua, hoặc là tôi sẽ làm bất cứ cái gì chắc chắn chẳng tốt đẹp gì cho anh và những gì anh đang cố gắng xây dựng đâu.’’

( 3 - 1967 )