← Quay lại trang sách

Thiếu úy Hà Huy Lan Một cái chết tuyệt đẹp

Trên truyền hình chiếu những hình ảnh lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long. Người ta phải buộc xác những người chết đuối vào lều lán, đợi khi nước rút mới mang đi chôn. Vợ tôi đang bế con lắc đầu, chép miệng:

- Sao lại khổ đến nỗi thế!

Tôi an ủi và trấn tĩnh:

- Anh cũng có lần phải chôn người như thế rồi đấy! Hầu như lúc nào tôi cũng nhớ tới anh Hà Huy Lan, thiếu úy, đại đội trưởng C5 với cái chết bi tráng và tuyệt đẹp.

Dạo đó, những ngày đầu năm 1979, tôi được đi phối thuộch1[4] với đại đội 5. Đơn vị đóng quân ở ngoài phum Cầm-Prạ, một phum nằm sát biên giới Thái Lan, thuộc tỉnh Preah Vihear. Suốt một thời gian dài ở đó, tôi đã trở nên gắn bó với C5. Có những đêm bắt cá dưới ánh trăng sáng như ban ngày, cùng chịu những trận tập kích của địch vào lúc tảng sáng, cùng đi những đợt truy quét mệt lả người, trở nên thân thiết với các anh trong ban chỉ huy đại đội như Hà Huy Lan, người Nghệ An, anh Nguyễn Văn Trung, người Mường ở Hòa Bình, anh Nguyễn Văn Huyên, người Thạch Thất, Hà Tây.

Ngày 8 tháng 5 năm 1979, tôi được tiểu đoàn gọi về và hạ sĩ Nguyễn Văn Mạnh, người Bình Định, lên thay.

Để lại máy thông tin cho Mạnh, tôi một mình đi bộ từ phum Cầm-Prạ về phum Choăm S’re. Hai phum cách nhau một ngày đường. Con đường này, phải qua phum Căm-tin, một phum còn rất nhiều địch. Buổi sáng, ăn qua loa, nhận vắt cơm nắm, tôi một mình cuốc bộ. Cầm theo khẩu AK với hai băng đạn. Tôi cứ đi một mình. Ban chỉ huy C5 cũng không ai có ý kiến cho người đi cùng với tôi. Và tôi cũng không có ý định xin người đi cùng. Tôi ngại. Sợ họ chê mình nhát. Hơn nữa, từ khi lên đóng quân ở đây, bọn địch chưa phục kích ta lần nào ở đoạn đường này. Coi như an toàn. Và tôi cứ đi.

Còn ba ngày nữa là sinh nhật mình. Tôi sẽ tròn 19 tuổi.

Tự tôi thầm nhủ với tôi như vậy. Nói ra thì lạc lõng. Lại bị đồng đội chê cười.

Khi qua phum Căm-tin, nhìn những ánh mắt thù địch gườm gườm nhìn, tôi cố đi thật nhanh. Những đôi mắt trừng trừng, căng ra, nhìn tôi đầy uất hận. Mắt phụ nữ. Mắt đàn ông. Lạnh ghê người. Tôi mặc kệ. Càng đi nhanh. Như một làn gió vút qua.

Ra khỏi phum. Rừng rậm bên phải. Những cây săng lẻ cao vút bên vạt cây xanh sẫm, chứa bao điều nguy hiểm. Bên trái là dãy chuồng trâu. Hôi thối nồng nặc. Con đường mòn chạy giữa. Rễ cây xù xì. Tôi cảnh giác. Không dám đi giữa đường. Bọn địch nấp trong rừng xanh, bắn ra, dễ trúng lắm. Tôi vội đi rẽ xuống phía chuồng trâu. Đất thấp. Tuy bẩn, nhưng mình dễ có chỗ nấp. Tôi mở khóa an toàn. Cầm cây tiểu liên, vừa đi vừa chĩa súng về bên kia.

Thấy động, những con chim “te... te... hoắt...” kêu dáo dác, bay lượn trong khu rừng xanh. Tiếng kêu hốt hoảng. Kinh nghiệm lính tráng cho thấy, khi chim này kêu, thế nào bọn địch cũng đang mò vào. Tôi rợn tóc gáy. Tim đập thình thịch. Bước thật nhanh. Qua khỏi vùng nguy hiểm, mồ hôi tôi vã ra đầm đìa. Tôi vội hít một hơi dài. Coi như tạm thoát nạn.

Ngày 10 tháng 5, cùng Lê Quỳnh Lang, Lê Văn Học và một số người khác trong trung đội thông tin, chúng tôi đi tát cá. Khoảng 3 giờ chiều, bỗng nghe súng nổ phía xa, nhưng không ai để ý. Khoảng 5 giờ, vừa về đến tiểu đoàn, đang làm cá thì nghe ồn ào trên nhà tiểu đoàn bộ, chúng tôi chạy lên, thấy anh Trung, chân đất, quần áo xộc xệch, mặt hớt hải, cầm ngang cây AK, thở dốc:

- Cả ban chỉ huy bị phục kích, anh Lan bị thương rồi.

Chúng tôi hốt hoảng. Chính anh Trung cũng bị thương, vết thương ở mông to và sâu bằng nắm đấm, máu vẫn đang rỉ ra. Ngay lập tức, thông tin trinh sát và vận tải vội triển khai đi tìm ban chỉ huy C5.

Đến tối chúng tôi mới đến địa điểm bị phục. Đó là con đường dẫn vào phum Căm-tin. Khi đến nơi, chúng tôi thấy anh Huyên đang nằm gục bên hố nước ven đường, áo quần ướt đẫm vì nước và máu. Khẩu AK báng gập vẫn chưa kịp bật báng, còn đeo bên vai. Anh bị trúng đạn vào giữa miệng. Cái mồm toang hoác. Những chiếc răng chìa ra. Khi còn sống, anh bị hơi vẩu. Giờ đây, cái miệng anh dẩu ra với hai hàm nứt toác. Ngay phút đầu tiên tôi không thể nào nhận ra anh Huyên. Ít giây sau, trấn tĩnh lại, tôi mới bàng hoàng khiêng anh vào võng.

Chuẩn úy Nguyễn Văn Huyên mới từ đại đội thông tin trung đoàn về C5 được ít ngày làm chính trị viên phó. Hình như anh vừa về phép, mới cưới vợ. Mấy hôm trước, tôi còn giận anh Huyên vì anh đã đọc trộm thư từ và nhật ký của tôi. Bây giờ anh đã chết. Lúc trúng đạn, chắc anh đau đớn lắm. Bộ phận vận tải vội khiêng anh về tiểu đoàn.

Cách chỗ anh Huyên nằm không xa là xác một tên địch. Nó nằm sấp, mặc quần áo đen. Đây là thằng địch do anh Trung bắn chết. Anh Trung kể: Khi nghe tiếng anh Lan kêu: “Trung ơi, tao bị thương rồi!” thì bọn địch xông lên định bắt sống quân ta. Anh Trung nấp sau phía cây, nổ súng. Một thằng ngã sấp. Số còn lại quay đầu chạy vào rừng. Chúng tôi vào phum, gọi phum trưởng ra nhận mặt, xem có phải là người trong phum không. Mấy người đàn ông Khmer ra, lật xác lên, lắc đầu và xua tay.

Chúng tôi bảo họ đi chôn tên địch. Mấy người Khmer cầm dao, chặt đoạn dây rừng, buộc hai chân tên địch đang nằm sấp, kéo về phía rừng thưa. Đường mấp mô và khô cứng, xác thằng địch bị kéo lê trên đất nghe sần sật, sần sật. Trời tối mò, rừng cây đen thẫm, xác thằng địch đen thui bị kéo lê trên mặt đất tối sầm, chỉ có những tiếng sần sật vang lên nhịp nhàng. Bao năm rồi tôi không thể nào quên được những tiếng sần sật ấy. Những người Khmer bới qua loa cái hố sâu chừng mươi phân, đặt xác thằng chết xuống, chặt dăm cành cây phủ lên. Thế là xong. Rồi họ xin phép ra về như không có chuyện gì xảy ra.

Đêm đó, chúng tôi thức suốt để đi tìm anh Lan theo hướng anh Trung chỉ. Còn anh V. nữa nhưng anh Trung không biết đã chạy hướng nào. Gần sáng, trinh sát Nguyễn Trần Hải, nhà ở phố Thi Sách, Hà Nội, nhặt được chiếc bàn chải đánh răng. Chúng tôi xác định cái này là của anh Lan. Đi vài chục mét nữa thì trinh sát Nguyễn Đức Cầm, người Tam Kỳ, Quảng Nam nhặt được mảnh túi áo bị xé cùng một số giấy tờ. Tất cả đều là của anh Lan. Đến khoảng 5 giờ sáng, chúng tôi nghe thấy tiếng chim kền kền kêu dáo dác phía trước. Đó là loại chim to. Con nào đầu cũng trọc lốc. Loài chim này chuyên ăn xác chết. Chúng tôi gặp nhiều ở phum Choăm S’re. Lính tráng bắn về. Nhìn chúng thật ghê rợn. Lông trụi thùi lụi. Trên cánh, bọ, rận đầy. Chúng tôi làm thịt, nhưng vừa cho một miếng vào miệng, đứa nào cũng phải nhè ra. Vì thịt chúng hôi khủng khiếp. Như mùi xà phòng pha nước cống. Phải đi đánh răng ngay. Hút thuốc rê cho át mùi khủng khiếp. Bây giờ, loài chim ấy đang định xà xuống xác chỗ anh Lan. Chúng tôi vội đi về phía đó.

Anh nằm bên bờ suối cạn. Đầu gối lên khẩu M.79. Vết thương trên thái dương được buộc lại bằng chiếc khăn mặt trắng. Các túi áo bị xé hết. Anh nằm nghiêng như đang ngủ say. Đôi dép cao su được đặt ngay ngắn dưới chân. Quanh anh còn ba vỏ đạn M.79. Da mặt còn tươi, áo vẫn bỏ trong quần. Đây là tư thế chết đẹp nhất ở chiến trường mà tôi được gặp.

Khiêng anh Lan về đến đơn vị thì chúng tôi tập trung vào chiến dịch đánh lên Anlong Veng. Xác anh Huyền đã được chuyển lên trung đoàn. Còn xác anh Lan không kịp chuyển, phải buộc võng treo tạm vào kho đạn của tiểu đoàn. Trong kho còn ít đạn vì đã chia cho các đơn vị. Mãi đến gần 5 giờ chiều, tiểu đoàn đang chuẩn bị hành quân thì anh V. mới lò dò dẫn xác về. Thì ra anh chạy lạc đến một đơn vị của trung đoàn 95, được người của đơn vị bạn dẫn về.

Nhìn bộ mặt bạc nhược của chính trị viên phó tiểu đoàn Nguyễn Xuân V., chúng tôi chán hẳn. Cái chuyện bị địch phục kích đều từ anh này mà ra. Đang đi làm công tác dân vận, nhận được điện gọi về tiểu đoàn để chuẩn bị đại hội đảng bộ, anh V. rẽ vào C5 gần đó để rủ ban chỉ huy đại đội về cùng. Qua phum Căm-tin, anh V. rủ ở lại nấu cơm ăn trong nhà dân. Các anh cũng chủ quan. Nghĩ mình đi bốn người nên không mang theo lính bảo vệ, có ngờ đâu trong phum vẫn có địch. Chờ cho các vị cơm no rồi mới lên đường, ra đầu phum là chúng quật.

(Chiến dịch đánh lên Anlong Veng lần đó của đơn vị chúng tôi thất bại. Kéo quân đi lại kéo quân về. Lực lượng to lớn, cỡ trung đoàn tăng cường, được xe tăng của sư yểm trợ, chuẩn bị công phu nhưng cuối cùng phải về không. Nguyên nhân từ điều hết sức vặt vãnh. Số là nghe tin chuẩn bị đi chiến dịch, lính tráng đổ xô vào phum Choăm Sre xin thuốc hút. Dân hỏi: “Xin làm gì mà nhiều thế?”. Lính hồn nhiên: “Đi bắt Pol Pot ở Anlong Veng”. Anh em có biết đâu rằng, dân trong phum có con em đi lính Pol Pot rất nhiều. Đêm, họ đã cắt rừng đi báo cho chồng con họ biết. Khi xe tăng ta kéo lên, dọc đường, địch đã chặt những cây to mấy người ôm không xuể, đồ ngang. Công binh phải dùng mìn đánh để mở đường. Đến nơi, Anlong Veng vườn không nhà trống. Một tuần sau, ta phải rút về).

Đi bộ hàng trăm cây, vừa về đến đơn vị, trung đội trưởng Lê Quỳnh Lang đã phân công cho tôi cùng Nguyễn Đức Thừa, người Quảng Nam, liệm xác anh Lan để lên theo xe chuyển về sư đoàn. Suốt cả tuần đó, trời mưa không ngớt. Cái lán kho đạn không có vách thưng, mưa hắt xối xả. Từ nhà thông tin đã ngửi thấy xác anh Lan bốc mùi. Mỗi đợt gió thoảng qua, ai cũng phải nhăn mặt.

Tôi và Thừa ra kho đạn. Lạ thật, trời mưa nhiều thế, rừng và đất vẫn còn ẩm ướt, nhưng bao nhiêu cỏ cây quanh kho đạn đều úa vàng, chết rũ. Không ngờ nước dịch từ trong người tử sĩ rỉ ra lại độc đến thế. Đám cỏ tranh úa vàng quanh xác anh Lan khắc mãi trong tâm trí tôi.

Tôi và Thừa hạ xác anh Lan xuống. Bụng anh Lan đã trương phềnh như bụng trâu. Cả cái võng rộng 1,5 mét mà ôm không kín. Võng đã dính chặt vào áo quần và da bụng. Bóc lớp võng ra, da bụng cũng dính theo. Giòi bọ lúc nhúc. Thừa đề nghị cho luôn cả võng vào túi ni lông, nhưng người quân y sư đoàn không cho phép chôn võng cùng tử sĩ. Tôi không biết nguyên tắc đó của ai. Hay do anh ta nghĩ ra? Song do anh ta là cấp trên, chúng tôi phải tuân lệnh. Khi tôi bê đầu anh Lan lên, những mảng tóc dính da đầu cũng bị tuột, lộ ra hộp sọ. Tôi căng túi. Thừa khỏe hơn tôi, đẩy xác anh Lan vào. Một túi, nước dịch vẫn ứa ra. Phải lồng vào hai túi. Tôi lấy lọ Penicillin đựng mảnh giấy ghi tên tuổi, quê quán, cấp bậc, chức vụ, ngày hy sinh của anh Lan bỏ vào túi luôn. Ruồi nhặng kêu vu vu, đậu vào mắt, vào miệng, chúng tôi mặc kệ. Ngoài nghĩa vụ và trách nhiệm với đồng đội, tôi còn làm vì tình yêu đối với anh Lan.

Sau đó, tôi chạy về bãi cỏ gần nhà thông tin, nằm thở dốc. Nhìn lên bầu trời thấp, những đám mây trĩu nước, lờ đờ bay. Không còn anh Lan với giọng nói và tiếng cười sang sảng, không còn anh Lan dạy tôi lên gấu quần, không còn những đêm anh Lan rủ tôi vào các cơ sở trong phum Cầm-P’rạ nắm tình hình địch, nướng những con cá to như cây chuối trên bếp lửa rực hồng rồi uống rượu xa-ra với dân. Không còn anh Lan như một điểm tựa tinh thần vững chắc của bao binh lính. Không còn... Không còn... Và lòng tôi buồn tê tái đớn đau khi biết rằng vợ anh, chị M., người con gái thành phố Vinh, đã ngoại tình.

Tôi ra suối C8 tắm. Cạnh đó có cây khô bị sét đánh, chẻ toang. Lấy rìu bửa những tảng than ra để gội đầu và kỳ cọ cho sạch. Về đến nhà, gặp Thừa đang ngồi thừ ra bên bàn, tôi hỏi:

- Đồng hương giặt võng anh Lan ở đâu?

- Ở suối C8

- Chết mẹ! Sao không bảo? Mình vừa tắm ở đó về!

Thừa cười. Tôi giãy nảy và cũng phải cười. Thừa đẹp trai hiền lành, da trắng như thư sinh. Tuy cùng trung đội, nhưng chẳng mấy khi gặp nhau vì phải đi phối thuộc luôn, song tôi rất mến Thừa.

Ít ngày sau, tôi lại vác máy thông tin đi phối thuộc với C7. Anh Trần Thanh Chương quê Nam Đàn, Nghệ An, chính trị viên đại đội kể:

- Mình về đến Chchép, nghe tin có xe chở tử sĩ của E29 chạy qua, mình vội đến tìm xem có ai quen. Không thể tin ở mắt mình được nữa. Trời ơi! Hà Huy Lan đây sao? Không thể tin nổi. Ông có biết không, từ đơn vị mình về đến nước, mỗi xác tử sĩ phải lồng vào chín túi ni lông. Đến Chchép đã là bảy túi. Đây ông xem, lá thư cuối cùng ông Lan viết cho mình hôm họp quân chính ở trung đoàn, trước khi mình đi công tác.

Anh Chương cho tôi xem lá thư. Đúng nét chữ rắn rỏi của anh Lan hay viết điện cho tôi truyền về tiểu đoàn hằng ngày. Vẻn vẹn chỉ có bốn câu thơ viết trên sổ tay:

Chim xa rừng cho cây nhớ cội

Người xa người nhớ lắm người ơi!

Từng bên nhau chiến đấu bấy năm trời

Trong phút chốc phương trời nam cách mặt.

Anh Chương cứ nhắc đi nhắc lại rằng lá thư này như điềm gở báo hiệu anh Lan sẽ hy sinh. Rồi với giọng Nghệ Tĩnh ngâm nga, anh đọc cho tôi nghe bài thơ khóc bạn. Hôm anh Lan mất, đúng vào dịp chi đoàn tiểu đoàn bộ phát động làm báo tường chào mừng đại hội đảng bộ tiểu đoàn. Tôi xúc động viết bài thơ vĩnh biệt anh Lan. Song y sĩ Nguyễn Văn Tố, bí thư chi đoàn, người Thanh Hóa, nói lại với tôi rằng, bài thơ không dùng được, sợ ảnh hưởng đến tinh thần anh em.

Tôi nhớ anh Lan. Anh có thói quen chép lại thư. Mỗi lá thư của vợ gửi sang, anh đọc xong rồi chép lại trong cuốn sổ tay. Những lúc tâm hồn trống trải, anh lại giờ sổ ra đọc. Như một niềm say mê chân thành, bình dị.

Anh hay kể cho tôi về Phùng Minh Tân, bạn tôi, đã hy sinh quá sớm. Anh khen Tân chiến đấu dũng cảm. Nhớ trước lúc tắt thở, Tân cứ kêu: “Ới đại trưởng ơi, cứu em với”. Anh cảm thấy trái tim mình tan vỡ, nhìn thằng em ra đi mà không làm gì được.

Có một tối, vào cuối tháng Tư, anh Lan rủ tôi vào phum kiểm tra tình hình địch. Hai anh em mang hai khẩu AK. Chúng tôi ghé thăm ông già người Lào. Đơn vị tôi, trước đóng quân bên đó, nên anh Lan nói tiếng Lào rất giỏi. Ông già Lào có hai đứa cháu bị sốt rét. Anh Lan cho thuốc. Tuần sau thăm lại, chúng đã khỏi. Anh hay kể cho tôi về quê anh, huyện Hưng Nguyên. Nơi ấy, bước ra đồng là bao nhiêu lươn và cua. Anh kể về những món ăn dân dã mà anh làm rất ngon. Anh nói về những ước mơ của anh. Về một ngôi nhà có người vợ đảm. Về ước mơ được đi học trường sĩ quan Sơn Tây để nâng cao trình độ... Khuya về, anh Lan ngồi bên bàn, viết gì đó. Sáng hôm sau, anh Lan đưa tôi mảnh giấy. Tôi mở ra. Dòng chữ anh nghiêng nghiêng, đậm nét:

BIẾT BAO GIỜ...

Biết bao giờ mới về được, cùng em

Chàng trai nhỏ bên anh nơi mặt trận

Gặp nhau rồi để xa nhau, có thật?

Hà Nội ơi, gặp lại... Biết bao giờ....

Lúc ấy, tôi đọc và mỉm cười. Ngỡ như lời anh Lan hò hẹn ngày mai. Tôi đâu biết đấy là lời giã biệt của anh Lan gửi cho riêng tôi? Bốn câu thơ mà có đến hai dấu hỏi. Thơ của người có tâm trạng khác thường. Dường như, người nào ở xứ Nghệ cũng đều có khả năng làm thơ. Chính âm điệu giọng nói của họ đang đã là thơ ca rồi. Tại sao đêm đó, anh ngồi viết mà tôi lại ngủ say sớm thế? Đêm đó, điều gì lay động trong anh? Điều gì khiến anh thao thức? Điều gì thúc đẩy anh tiên cảm cuộc chia ly giữa chúng tôi? Bây giờ, cái câu “Biết bao giờ..” tôi rất ít nói. Nó như lời nhắn của anh Lan vọng về từ thế giới bên kia.

Về anh Nguyễn Văn Trung, kể từ khi ra quân, chúng tôi ít có điều kiện gặp anh. Đầu năm 2001, mấy anh em C5 gồm Vinh (Nam Đồng), Toàn cây si, Thành béo... rủ nhau lên Hòa Bình tìm thủ trưởng cũ. Gặp anh Trung đang tuốt lúa bên đường, gần dốc Cun, Toàn cây si giả vờ đến hỏi chuyện mua máy. Nhìn khách, anh Trung bỗng kêu lên:“A! A! C5!C5 phải không?”. Anh em nhận ra nhau, quá đỗi hạnh phúc. Gặp nhau được ít giờ, khi ra về, Toàn hẹn tháng sau sẽ dẫn mọi người đến thăm anh Trung. Vài tháng sau lên, mọi người chỉ gặp anh Trung qua tấm ảnh trên bàn thờ. Anh Trung mới mất cách đó mấy ngày. Anh đi xe máy, tránh một người đi xe đạp, phanh gấp, đập đầu xuống đường, chấn thương sọ não và chết.

Như vậy Ban chỉ huy C5 ngày ấy gồm các anh Hà Huy Lan, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Trung, người chiến trường, người hậu phương, đều đã ra đi.