← Quay lại trang sách

Nguyễn Văn Cải Đang ky bo bỗng hào phóng

Buổi trưa, đi ăn cơm bụi. Bà chủ quán đong cho bát cơm khê. Tôi nói với người bạn đi cùng:

- Cơm này, thời lính chắc có nhiều người bỏ lắm đây.

Thế là câu chuyện của chúng tôi liền xoay quanh chuyện cơm khê, cơm sống. Không biết tự bao giờ, trong đời sống hằng ngày của lính, lưu truyền cái tục kiêng ăn cơm sống, cơm khê, cơm nát. Bởi ăn cơm sống: gặp địch; ăn cơm khê: gặp địch; ăn cơm nát: cũng gặp địch. Mà đã gặp địch thì trường hợp bị thương hoặc hy sinh thường rơi vào người ăn sống hoặc cơm khê.

Tôi nhớ năm 79, đang hành quân, chẳng may một bữa trưa, anh nuôi nấu cơm khê, Cường “phở” lính 74, quê Hải Phòng, cầm vắt cơm, quăng ngay đi, chửi rầm trời suốt chặng đường, kể cả lúc giải lao, chửi đến tận chiều tối. Lại còn dọa bắn anh nuôi nữa. Ông Hán, thủ trưởng trung đoàn can cũng không nổi.

Sau Tết năm 81, anh Liễm được ra quân về nước, hầm tôi thêm một người mới: chuẩn úy Đặng Văn Độ, trợ lý tác chiến. Anh Độ người Hải Phòng, cao, hơi đen, tóc dựng. Vừa đến hầm tôi, đúng bữa cơm trưa, Thuận đi lấy cơm về. Anh Độ phát hiện ra cơm khê. Nhịn luôn. Tôi và Thuận cứ ăn. “Ăn cơm khê cho thơm miệng” - Thuận đùa. Vừa ăn, chúng tôi vừa nghe anh Độ kể:

- Đơn vị mình vừa chết một thằng. Tên nó là Cải. Nguyễn Văn Cải. Thằng này nổi tiếng là ky bo nhất đơn vị. Không bao giờ cho ai cái gì. Ai cũng ghét, không chơi với hắn. Anh em thèm thuốc rỏ rãi mà hắn vẫn hút một mình. Đến tàn thuốc cũng giấu đi, nhưng chiều qua tự nhiên ông tướng lục ba lô, cho người này cái áo, cho người kia chiếc bi đông, còn mình thì hắn cho chiếc dây lưng. Còn bao nhiêu thuốc rê trong ba lô hắn chia hết cho mọi người.

Nhưng đặc biệt là, đến tối không phải phiên hắn đi phục, hắn vẫn xung phong đi. Hắn là tiểu đội trưởng. Khi phục, thì hắn lại phân công hai người nằm bên này đường, còn hắn nằm chếch phía bên kia. Đến khuya không hiểu thế nào, thằng Cải lại bò ra, nằm ngang giữa đường, đầu gối lên súng, hai tay giang ra, ngáy khò khò. Gần sáng bọn địch đi qua, gặp Cải chúng nổ súng bắn liền.

- Thế chiều qua đơn vị anh nấu cơm sống hay khô? - Thuận hỏi đùa.

- Vừa sống vừa khê, không biết thằng Cải có ăn không, chứ mình thì vẫn nhịn.

Trời ơi, cái anh Cải này, chính tay tôi chôn mấy tháng trước. Tôi không ngờ, lúc sống, anh ấy lại là người hà tiện. Hôm đó, trời đã tối, tiểu đoàn bỗng nhận được một ca tử từ D9 khiêng về. Tử sĩ đã bốc mùi, phải chôn ngay trong đêm. Tiểu đội đóng quan tài của anh Tài (Hải Hưng) cùng anh Bùi Văn Vinh (Nghĩa Bình) phải làm ngay một cái hòm. Tất nhiên, cần chôn cất tử tế. Tôi không biết lý lịch tử sĩ. Phải hỏi anh em D9. Họ cho tôi mỗi mảnh giấy ẩm. “Nguyễn Văn Cải, Nghĩa Hành, Nghĩa Bình. Sinh năm 1960. Nhập ngũ tháng 8/1980. Con ông... Con bà... Hy sinh ngày... tháng 7/1980”. Nhìn mảnh giấy nhỏ, nhàu nát vì nước mưa, chỉ có vài dòng như vậy, tôi cũng cảm thấy có đủ “dữ liệu” để viết một bài điếu văn đàng hoàng. Rằng anh ấy sinh ra trong một gia đình làm nông; rằng quê hương anh ấy có truyền thống này nọ; rằng anh ấy đã xếp bút nghiên, lên đường ra sao; rằng anh ấy được biên chế về đơn vị X, chiến đấu thế nào; rằng đồng đội quý mến anh ấy ra sao... Rồi ngày… tháng… năm, trong một lần đi truy quét tại địa điểm..., anh ấy đã hy sinh... Một phút mặc niệm... Tiểu đội tiêu binh, bắn loạt súng vĩnh biệt...

Con người, khi sống, có nhiều khuyết tật. Nhưng khi chết, những khuyết tật ấy, lại trở thành “ưu điểm” để mọi người nhớ về mình. Những người chết rồi, nhìn ai cũng đẹp. Và những người còn sống, đều rất nhân từ. Phải chăng, chính vì thế, nên chúng ta gắn bó mãi với nhau, như anh em một nhà? Và phải chăng, chính vì thế, chúng ta, mãi nhớ về nhau. Kể cho nhau những câu chuyện đau đớn, nặng nề với cái giọng hết sức nhẹ nhàng, thậm chí bông đùa? Nhưng tôi biết, trong sâu thẳm trái tim mỗi người, đều có một nỗi đau, đều có một ước vọng. “Giá như... giá như... nếu bạn mình còn sống...”.