Anh Tô Văn Than Phút trước còn ngồi đây...
Thỉnh thoảng tôi gặp trên đường phố một vài người sinh viên có gương mặt giống Dương Công Hạm hoặc ai đó có nét hao hao giống Nguyễn Xuân Nhật Minh hay Hoàng An. Những cuộc gặp gỡ lặng lẽ, đơn phương đó mang đến cho tôi một niềm cảm động, rằng những đồng đội thân yêu của tôi hình như vẫn còn sống đâu đó quanh tôi.
Hôm vừa rồi, đi trên đường, tôi bỗng gặp một người giống anh Tô Văn Than vô cùng. Lang thang ở phố Tràng Tiền, bỗng tôi thấy một người rất giống anh Tô Văn Than. Dáng cao dong dỏng, môi đỏ, đôi mắt đen dài quyến rũ và, đặc biệt, ông có nụ cười rất tươi. Ông đi một mình trên phố Tràng Tiền. Tôi sửng sốt “anh Than đây phải không?”. Vội gửi xe vào phố Nguyễn Xí, tôi đuổi theo.
Tôi biết đó không phải là anh Than, nhưng đi theo một dáng hình thân yêu của mình đã khuất, để hình dung, con người ấy hiện về, đi trên phố, giữa ban ngày, có lẽ cũng là một hạnh phúc.
Nhưng anh Than của tôi đã chết.
Một buổi sáng đầu mùa mưa năm 80, tôi vừa thức dậy đã thấy anh Than đứng trước cửa hầm. Đêm qua thức nấu rượu với anh Liễm nên tôi dậy muộn. Nồi rượu vẫn đang chảy vào chai huyết thanh. Thấy anh Than đến, anh Liễm rót rượu ra mời, bốn bát bốn người. Thêm Huỳnh Đức Thuận. Anh Liễm cười, giọng chủ xị:
- Rượu đầu be đấy. Uống vào bổ lắm!
Anh Than cười và đùa:
- Chốc ra kia, không bổ ngang thì bổ ngửa như chơi.
Cứ mỗi lần chúng tôi ép, anh lại nhắc đi nhắc lại câu này. Vừa nói vừa cười rất tươi. Gương mặt anh rượu vào ửng hồng rất đẹp.
Không cần nói nhiều, ai cũng biết, trong lính, anh nào chả uống rượu tốt. Anh Than uống rất cừ. Rượu uống bằng bát mà cứ như không. “Cây nhà lá vườn”, rượu do chính tôi và anh Liễm nấu. Gạo không thiếu. Xe chở gạo lên đơn vị, tiếp tế cho cả mùa mưa. Địch bắn trúng xe, cháy vài bao. Anh Liễm viết điện, bảo về Trung đoàn, cháy cả xe gạo. Tôi chuyển điện. Trung đoàn tin liền. Thế là gạo được phân phát cho anh em. Tha hồ nấu. Men thì xin trong dân. Men lá hẳn hoi. Chất đầy thành hầm. Tôi được anh Liễm bày cho cách ủ men, nấu rượu. Học gì thì chậm, chứ học nấu rượu, tôi tiếp thu rất nhanh. Và sản phẩm ra đời từ căn hầm, dưới làn pháo địch, giữa bốn bề địch vây, uống rất khoái.
Chúng tôi đang uống ngon thì chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Vằng bước từ trong hầm tiểu đoàn ra, gọi:
- Này Than, về xem đơn vị thế nào. Anh em đi tuần phát hiện bãi mìn ngay lối vào đơn vị đấy.
Anh Than mới về làm đại đội trưởng C6 được hai tháng. Đơn vị anh mới rút từ trên núi về đứng chân gần tiểu đoàn. Uống nốt chỗ rượu, anh Than vội đi.
Khoảng 10 phút sau, chúng tôi nghe có tiếng mìn nổ phía C6. Tin điện sang tiểu đoàn: anh Than vấp mìn. Cùng lúc đó, chiếc võng cáng anh Than được khiêng tới. Anh nằm im trên võng, như đang chìm vào giấc ngủ đau đớn.
Rồi chúng tôi liệm anh, đặt anh vào quan tài. Người anh quá dài nên phải nối quan tài thêm.
Chôn anh Than buổi sáng trời thật đẹp. Những cây khộp khô đang xòe những chiếc lá xanh non. Bầu trời cũng xanh như tán lá. Câu nói lúc uống rượu của anh Than cử ám ảnh mãi trong tôi. Mà sao anh cứ vừa cười vừa nhắc đi nhắc lại đến mấy lần?
Lúc làm biên bản kiểm tra di vật tử sĩ, tôi thấy có một lá thư của anh Than viết cho vợ nhưng chưa kịp gửi. Thư đã dán kín và có tem nên tôi không thể đọc. Trong trích ngang, thú thực là tôi không còn nhớ quê anh ở đâu. Mãi đến ngày 21/8/2001, gặp anh Thừm, anh Hiên ở Hòa Bình hai anh mới nói cho tôi biết anh Than quê ở xã Đại Hoàng, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Sơn Bình và nơi làm việc của vợ anh là Công ty lương thực Hà Sơn Bình. Mấy ngày sau đó, lòng tôi cứ băn khoăn hình dung cách vợ anh nhận tin báo tử ra sao?
Vậy đấy. Đối với lính chiến, giờ trước sống, giờ sau chết, hầu như không có khoảng cách. Và anh Than chết, chúng tôi chôn. Như những người khác. Ngày nào chả có người chết. Nhưng đối với vợ anh, một người đằng đẳng chờ anh bao nhiêu năm trời, liệu chị có chịu đựng nổi khi nhận tin này không? Tôi biết, lấy quan điểm và thái độ của người lính trận mạc so sánh với nỗi chờ đợi của những người vợ lính là sự phũ phàng, nhẫn tâm. Tôi biết, những chuyến đi báo tử của chúng tôi, những chuyến thăm gia đình đồng đội tử trận chẳng đáng gì so với nỗi đau tột cùng của những người mẹ, người cha, người vợ... Nói như một bác sĩ quân y, những việc chúng tôi làm, dù đến đâu chăng nữa, cũng chỉ như “chiếc khăn mùi xoa lau những giọt lệ trên mắt” những người thân của họ. Nhưng chẳng còn cách nào khác. Nói rằng, họ vẫn sống trong tâm trí đồng đội, cũng chỉ là một cách nói. Nói rằng, sự hy sinh là điều không tránh khỏi, và cuộc sống vẫn tiếp diễn, cũng vẫn chỉ là một cách ngụy biện.
Nói rằng, những gì mà người hy sinh để lại, không gì khác, ngoài chúng ta, những người đang sống, thì cũng chỉ là cách lý luận của thơ ca...
Chỉ có những người chết
không có gì
bù đắp nổi
không có gì...