← Quay lại trang sách

Chương 10

Đêm đó, khi Sebastien trở về từ khu nhà máy, anh mặc một chiếc áo mới và đã rửa sạch gần hết cỏ dính trên râu và mặt.

Anh ngồi tựa lưng vào tường và nhìn một con thạch sùng bò ngang trần nhà. Tôi dịch người ra để anh có chỗ nằm xuống bên cạnh tôi trên chiếc chiếu.

“Señor Pico đang ở nhà lúc này,” tôi nói. “Anh phải cẩn trọng hơn trong việc tới gặp em đấy.”

“Ngay lúc này, anh không mong muốn điều gì hơn việc Señor Pico thử gây chuyện vào anh,” anh trả lời với một tông giọng giận dữ xa lạ. Có thể mọi thứ đang dần trở nên rõ ràng hơn với anh. Người bạn của anh đã chết. Anh có thể đã chết. Chúng tôi đang ở trong căn nhà của người đàn ông đã giết chết bạn anh ấy. Sebastien có thể vào phòng và giết chết señor nếu anh thực sự muốn.

“Señor Pico có súng trường,” tôi nhắc nhở anh, “và chúng ta đang ở trong nhà của họ.”

“Không khí mà chúng ta đang hít thở có thuộc về hắn không?” Anh hỏi vặn.

“Già Kongo thế nào rồi?”

“Không ai có thể tìm thấy ông ấy ở đâu cả,” anh đáp. “Ông ấy đã đi đâu vậy?”

“Sau khi bọn anh mang xác Joël tới chỗ ông ấy... ”

“Anh ấy chết trong tình trạng thế nào?” Tôi hỏi, và lập tức cảm thấy hối hận ngay khi câu hỏi ấy buột khỏi miệng.

“Anh ấy rơi từ một bờ dốc rất cao xuống con lạch,” anh nói. “Già Kongo đã làm gì với xác của anh ấy?”

“Ông ấy để một vài người nhìn anh ấy lần cuối,” anh nói một cách bình tĩnh. “Sau đó Yves và anh giúp ông ấy đưa Joël xuống con suối nhỏ. Bọn anh rửa sạch máu trên người anh ấy và đưa anh ấy trở lại phòng của Kongo. Kongo nói rằng ông ấy muốn ở một mình với con trai. Trong lúc anh đang đợi ở đây để gặp em, thì ông ấy đã mang xác của anh ấy đi.”

Thật khó để có thể hình dung cảnh Già Kongo vác cái xác của Joël đi đâu xa trên lưng ông. Joël cao hơn cha với khung xương to hơn. Anh là người thường được gọi để kéo một cái xe bò đầy mía khi những con bò đã quá kiệt sức để có thể kéo tiếp.

“Người ta vẫn nói rằng một cậu con trai không bao giờ có thể cao hơn tấm lưng hay cây roi của cha mình,” Sebastien nói, xoa tay lên con mắt bầm tím của mình. “Nếu Kongo có thể một mình vác Joël đi thì câu nói đó chính xác hơn là anh tưởng.”

“Có thể Kongo muốn nói lời từ biệt với Joël một mình,” tôi vừa nói vừa gỡ tay anh ra khỏi mắt anh.

“Những người khác đang đi tìm ông ấy khắp nơi,” anh nói. “Anh nghĩ ông ấy mang xác Joël đi xa vì ông ấy muốn mọi người để ông ấy được yên. Anh sẽ tôn trọng nguyện vọng của ông. Kongo sẽ quay về khi nào ông ấy muốn.”

Anh lướt tay lên xuống trên lưng tôi. Anh vẫn luôn làm vậy trong suốt một năm chung sống với tôi. Cách tốt nhất để anh ấy có thể quên những chuyện buồn là ôm và giữ chặt một người còn buồn hơn anh.

“Em đang toát mồ hôi này,” anh nói, để cho những ngón tay chạy dọc sống lưng tôi.

“Em lại mơ về cha mẹ em chìm trong con sông đó,” tôi đáp. “Anh không muốn em tiếp tục gặp giấc mơ này nữa,” anh nói. “Nó luôn giống hệt những cảnh đã xảy ra trong quá khứ.” “Chúng ta cần phải làm gì đó để thay đổi điều này, ngay bây giờ.” Anh thổi tắt ngọn đèn. Căn phòng chìm vào màn đêm tĩnh mịch. Tôi nhắm chặt mắt lại và lắng nghe tiếng nói của anh.

“Anh không muốn em mơ thấy con sông đó nữa,” anh nói. “Hãy mơ một giấc mơ thư thái. Đừng chỉ tập trung vào đoạn kết, hãy cố gắng nhớ cả khúc giữa và khởi đầu của ngày hôm đó nữa. Hãy nhớ những gì cha mẹ em làm khi họ còn sống. Giả dụ rằng con sông hôm đó rất bình lặng.”

“Còn cha mẹ em?”

“Họ đã qua đời vì bệnh tật nhiều năm về trước.” “Và tại sao em lại đến đây?”

“Mặc dù em chỉ là một cô bé con khi em rời đi và anh là một người đàn ông trưởng thành khi anh tới đây, và gia đình chúng ta không hề biết nhau, em đã đến đây để gặp anh.”

Lưng và vai anh gồng lên cứng ngắc trong lúc anh thêu dệt nên một cuộc đời mới cho tôi.

“Vâng,” tôi nói, hòa theo anh. “Em đã đặt chân tới nơi này chỉ để gặp anh.”

“Anh không có nhiều để cho em,” anh nói, “nhưng anh muốn em biết rằng ngày mai sẽ là ngày bắt đầu mùa zafra 1 cuối cùng của anh. Năm sau, anh sẽ không làm việc trên ruộng mía nữa. Anh sẽ kiếm việc ở các đồn điền cà phê, gạo, thuốc lá, ngô, một trang trại trồng hành hay thậm chí là gọt vỏ khoai mỡ. Anh sẽ làm ở bất cứ đâu trừ ruộng mía. Anh có bạn bè giúp đỡ cho anh. Anh thề với em, Amabelle, đây sẽ là mùa thu hoạch mía cuối cùng của anh, cũng như của Joël.”

1 Từ zafra dùng để chỉ thời gian thu hoạch cuối hè hay đầu thu, được sử dụng phổ biến trong các quốc gia chịu ảnh hưởng văn hóa Ả Rập hoặc Tây Ban Nha. Ở khu vực Ca-ri-bê, từ này thường chỉ mùa thu hoạch mía. Ở Dominicana, một mùa zafra thường kéo dài từ tháng Một tới tháng Năm, khác với khu vực Địa Trung Hải (từ tháng Chín tới tháng Mười). Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, mùa zafra thường gắn liền với vòng đời của cây mía. Vì cây mía ở Ca-ri-bê được thu hoạch ở một thời điểm khác trong năm so với ở Tây Ban Nha hay Bắc Phi, nên ý nghĩa của từ này cũng thay đổi tuỳ theo vùng.

Tôi biết anh đang nghĩ rằng Joël thật may mắn vì không còn dính dáng gì đến cuộc đời trên đồn điền mía nữa, travay tè pou zo, kiếp sống của những mùa thu hoạch xương 2 .

2 Tiếng Creole của Haiti. Cách so sánh ám chỉ sự khó nhọc và bóc lột trên đồn điền mía, gần nghĩa với câu “Cao su đi dễ khó về, Khi đi trai tráng khi về bủng beo” của Việt Nam.

“Tối nay, khi Yves và anh mang xác của Joël về khu nhà máy,” anh nói, “anh đã nghĩ tới cách cả bố Yves và bố anh đều đã qua đời. Bố anh ấy chết trong lúc chỉ huy các đội quân chống lại sự xâm chiếm của bọn Yanki 1 ở Haiti, còn bố anh thì chết trong cơn bão lũ.”

1 Yankee. Ở đây chỉ quân đội của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ chiếm đóng Haiti từ ngày 28 tháng Bảy năm 1916, khi 330 lính thuỷ đánh bộ của Hoa Kỳ đổ bộ vào Port-au-Prince, thủ đô của Haiti, theo lệnh của Tổng thống Woodrow Wilson. Cuộc chiếm đóng chấm dứt ngày 1 tháng Tám năm 1934, sau khi Tổng thống Franklin Roosevelt chấp nhận hiệp ước ngừng chiếm đóng Tháng Tám 1933.

Tôi áp tay mình lên môi anh. Chúng tôi đã hứa sẽ biến những câu chuyện buồn của mình thành những chuyện vui vẻ hơn, nhưng anh ấy vẫn không kiềm lòng được.

“Đôi lúc, khi những người phu đồn điền quá mệt mỏi và phẫn uất với cuộc sống trên ruộng mía, họ thường nói chúng ta là một dân tộc mồ côi,” anh nói. “Họ nói chúng ta là những mẩu cháy cặn sót lại dưới đáy nồi. Họ nói có những người sinh ra không nơi thuộc về, và chúng ta là một trong số họ. Anh thì nghĩ chúng ta là một nhóm những vwayajè 2 , những người bộ hành. Đó là lý do tại sao em phải đi xa như vậy để gặp được anh, vì bản chất của chúng ta là những người như thế.”

2 Tiếng Creole của Haiti.