← Quay lại trang sách

Chương 12

Mùi hương lẩn quất ngọt ngào của sả lúc bình mình luôn là mùi mà tôi yêu thích nhất. Đứng từ trên đỉnh đồi, tôi nhìn thấy Luis trước cửa nhà bác, dùng một miếng vải bố để lau sạch vết máu của Joël còn dính trên một trong hai chiếc ô tô của Señor Pico. Tên chúng là Packards, loại xe được chính Generalissimo ưa dùng cho việc đi lại.

Tôi đi về phía con suối phía sau khu nhà máy mía đường nơi những người phu đồn điền hay tắm gội vào sáng sớm trước khi bắt đầu một ngày lao động. Hôm nay là ngày đầu tiên của một vụ thu hoạch. Con suối lúc đó đã đông kín người, bên nam bên nữ chỉ chia cắt nhau bằng một hàng cây thưa thớt.

Tất cả mọi người đều im lặng một cách khác thường, ngay cả trong cách họ thì thầm với nhau. Thay vì những tiếng tán dóc rộn ràng như thường lệ, buổi sáng hôm nay chỉ có tiếng chim ruồi rúc rích và tiếng nước suối xoáy ùng ục, cuộn quanh những thân người đang cản trở dòng chảy của nó.

Tôi vẫy tay chào Mimi, em gái của Sebastien. Khuôn mặt cô thấp thoáng trong dòng nước, bong bóng sủi tăm gần khóe miệng.

Mimi đã theo chân Sebastien đến thung lũng khi anh tới nơi này bốn năm về trước. Bây giờ cô đang làm hầu gái cho Doña Eva, người mẹ góa bụa của bác sĩ Javier và tiểu thư Beatriz.

“Chiều nay Doña Eva sẽ tổ chức một buổi lễ Ban Thánh thể 1 với món sancocho 2 để mừng sinh nhật của bà ấy,” Mimi gợi chuyện. Hai chân tôi nổi bồng bềnh trên những hòn cuội ấm ở dưới lòng suối. Cuộc đối thoại giữa chúng tôi diễn ra như thể không có chuyện gì to tát xảy ra và Mimi đang đem chuyện của bà chủ cô ấy ra tán gẫu như thường lệ. “Doña đã năm mươi tuổi rồi. Mấy người của bên chị có định đến dự lễ không?”

1 Tiếng Anh là Mass. Ở Việt Nam, nghi lễ này của đạo Công giáo thường được gọi là Thánh lễ. Hai lễ vật (hay thánh thể) căn bản là bánh bột mì và rượu, với bánh tượng trưng cho thân thể và rượu tượng trưng cho máu của Chúa Giê-su. Lễ ban Thánh thể mang ý nghĩa tưởng nhớ Chúa Giê-su đã hy sinh thân mình trên cây Thánh giá.

2 Một món súp gồm thịt và các loại củ, phổ biến ở vùng Ca-ri-bê và Nam Mỹ.

Mimi luôn gọi Señora Valencia và Señor Pico là moun ou yo 3 , những người của tôi, như thể họ mới là người làm công cho tôi vậy. Vừa lội vừa lấy chân đạp nước, cô trịnh trọng giơ tay lên và phủi một chiếc lá nhỏ bám trên mũi tôi. Quanh cổ tay phải của cô là một sợi dây chuyền làm từ những hạt cà phê sơn vàng xâu chuỗi, giống như sợi dây của Sebastien. Mẹ của họ đã tết sợi dây cho hai anh em để cầu cho họ được an toàn và gặp may mắn khi cả hai để bà lại phía bên kia biên giới sau khi cơn bão đã giết chết cha của họ.

3 Tiếng Creole ở Haiti.

Tôi lan man nghĩ ngợi về việc ngày sinh nhật lần thứ năm mươi của Doña Eva trùng với ngày đầu tiên sau cái chết của Joël, và nhận ra có lẽ tôi sẽ không bao giờ có cơ hội để nói lời từ biệt trước đôi mắt nhắm nghiền của anh. Tôi nói thầm với Mimi, “Em có nghĩ chị em mình sẽ sống lâu như Doña Eva không?”

“Em chẳng muốn sống lâu đến thế đâu,” cô trả lời một cách bộp chộp như ngày thường. “Em thà chết trẻ như anh Joël còn hơn.”

“Em thực sự muốn kết thúc đời mình dưới một hẻm núi như vậy sao?” Tôi hạ giọng để những người khác không nghe thấy.

“Em muốn cái chết đến với em một cách bất ngờ,” cô nói lớn. “Em không muốn phải chờ đợi lâu trước khi nó tìm thấy em.”

Mimi trẻ hơn tôi ít nhất bốn tuổi. Nếu không tính đến cái chết đột ngột mà cô đang mong đợi thì cô còn cả một quãng đời dài hơn tôi phía trước. Trong con suối này có những người đàn bà đáng tuổi cụ chúng tôi. Bốn người trong số họ đang ngồi kế bên và tắm gội cho một vài bé gái mồ côi cha mẹ. Trong đám những người đàn bà già nua nhất, một người bị mất tai. Hai người mất một vài ngón tay. Và xương gò má trái của một người thì nứt làm đôi, hậu quả của một cái mã tấu vung quá trớn trên ruộng mía.

Những người đàn bà già nhất trong đám phu đồn điền giờ đã quá ốm yếu, bệnh tật, hay què quặt để có thể nấu ăn hay lau dọn trong một căn nhà lớn, làm công việc thu hoạch trên ruộng, hay quay trở về quê nhà ở Haiti. Họ bắt đầu một ngày của mình với việc tắm gội dưới suối, sau đó đi đào rễ củ để ăn hay trông chờ vào lòng thương hại của những người hàng xóm hảo tâm.

Gương mặt Mimi đanh lại và nhuốm màu buồn bã khi cô quan sát những người đàn bà ngồi cạnh, trong số đó có Félice, một cô hầu gái trẻ nhà Don Gilbert và Doña Sabine, một cặp vợ chồng giàu có người Haiti sinh sống giữa các gia đình khá giả khác trong thung lũng. Félice có một vết bớt màu củ dền đầy lông lá như một hàng ria mép ngay trên môi. Mặc dù cô khá xinh đẹp, nhưng tất cả những gì người ta nhìn thấy khi nhìn vào mặt cô chỉ là cái bớt màu củ dền.

Félice đã là bạn gái của Joël cho tới trước lúc anh mất. Kongo, cha của Joël, phản đối mối quan hệ của hai người vì ông biết chút ít về tiểu sử gia đình Félice. Trong một giây phút túng quẫn giữa những năm đầu khi quân Yanki chiếm đóng Haiti, ông của Félice đã ăn trộm một con gà mái từ vườn của mẹ Kongo. Kongo từng nói ông không thể chấp nhận chuyện con trai mình qua lại với một người đàn bà có tổ tiên là một tên kẻ trộm. Rất có thể bản tính ấy sẽ ăn vào máu và truyền qua đời con cháu. Ông không thể mạo hiểm với đứa con trai độc nhất của mình.

Kongo đang đứng tắm ở giữa con suối, kỳ cọ người với một nắm lá mùi tây ướt. Mặt trời đang từ từ lên đỉnh phía trên mái tóc ánh bạc của ông.

Chúng tôi dùng pèsi, perejil 1 , hay mùi tây vì nó đem lại cảm giác của những buổi sáng mùa hè ẩm ướt. Những nhánh mùi tây đan vào nhau, vừa thô ráp xù xì, vừa dịu dàng mềm mại. Khi mới nhai, chúng vô vị và đắng ngắt, nhưng để lại một dư vị như một làn gió ngọt ngào trong cuống họng. Lá mùi tây có hương vị khác so với thân, tất cả đều được chúng tôi tận dụng trong thức ăn, ấm trà, nước tắm, nhằm gột rửa cả bên trong lẫn bên ngoài cơ thể khỏi những đau khổ và phiền muộn. Cây mùi tây tiễn biệt những bụi bặm của năm cũ và chào đón khởi đầu của năm mới. Chúng tôi cũng dùng nó, cùng với lá cam nấu chín, cho lần gội đầu đầu tiên của một đứa bé sơ sinh và cuối cùng của một người đã chết.

1 Từ trái qua phải: Tiếng Creole Haiti và tiếng Tây Ban Nha, đều để chỉ cây mùi tây (“parsley” trong tiếng Anh).

Những người đàn ông khác dạt ra xa để Kongo có nhiều không gian hơn bình thường. Tay ông chậm rãi kỳ cọ bờ vai rộng rồi vặn vẹo để chà xát bó mùi tây lên tấm bản đồ vẽ bởi những vết sẹo trên phiến lưng săn chắc, trong khi mắt ông đăm đăm nhìn xuống mặt nước như thể nó cho ông thấy nhiều hơn là hình ảnh phản chiếu của chính mình.

Sebastien và anh bạn Yves đang đứng gần Kongo nhất, xua tay ra hiệu cho những người đang muốn đến nói lời chia buồn với ông.

“Em tự hỏi là Kongo đã làm gì với cái xác của anh Joël,” Mimi rướn người về phía trước và thì thầm vào tai tôi.

Sẽ không ai dám cãi lời Kongo cho dù ông ấy đã làm gì với xác con trai mình đi nữa. Ông ấy là vị trưởng lão đáng kính nhất trong chúng tôi. Tất cả mọi người đều đặt niềm tin nơi ông.

Kongo thả bó lá mùi tây vào dòng nước và nâng con dao mã tấu lên. Ngắm nhìn công cụ làm việc của mình dưới ánh mặt trời, ông miết ngón tay theo mép dao như thể nó được làm bằng xương thịt. Kongo vẫn là một người phu đồn điền có sức lực. Ông đã lăn lộn cùng con trai mình qua hơn một tá vụ thu hoạch. Trước mỗi vụ mùa chính, trong khoảng mùa chết 1 , Kongo, Joël, Sebastien, và Yves luôn cùng nhau đi đốt đồng thuê cho các chủ đồn điền thuốc lá. Vào mỗi Chúa nhật, họ lại đốn củi làm than để bán.

1 Mùa chết (dead season) ở đây nói đến khoảng thời gian sau khi một vụ mía đã được thu hoạch và vụ mía mới chưa bắt đầu. Vì cuộc sống trên đồn điền mía được tính theo các mùa thu hoạch, nên những mùa không trồng trọt sẽ được gọi là “mùa chết”.

“Nếu người giết chết con trai Kongo là một trong số chúng ta thì hắn cầm chắc cái chết,” Mimi nói. “Nhưng đằng này lại là một trong số bọn họ nên chúng ta chẳng thể làm được gì cả. Tôi nghiệp Kongo, điều này hẳn đang thiêu đốt tâm can ông ấy. Em thì nghĩ là mạng đổi mạng, nợ máu cần phải trả bằng máu.”

Một vài người nữa xuất hiện. Họ trút bỏ quần áo và chen vào đứng giữa đám đông đang tụ tập trên mặt sông. Không có một nghi lễ nào, đây là một lời tiễn biệt trong câm lặng với linh hồn Joël, một lễ an táng trong im lặng lúc bình mình.

“Những người bên chị đã giết chết Joël trong lúc phóng xe về để gặp cặp sinh đôi mới chào đời đúng không?” Mimi hỏi. “Em nghe mọi người kháo nhau như vậy.”

“Đúng, mọi chuyện đã xảy ra như thế đấy.”

“Beatriz nghĩ rằng cô ta sẽ là mẹ đỡ đầu cho một trong hai đứa nhỏ.”

“Señor và señora sẽ quyết định chuyện đó.”

“Nếu Beatriz muốn cái gì thì thường cô ta sẽ đạt được nó.” “Em luôn gọi tên cô ấy trống không như thế à?”

“Em đâu cần phải đệm thêm ‘Señorita’ vào tên cô ta lúc em nói chuyện với chị đúng không nào?”

Tôi nghĩ về Señora Valencia, người mà tôi đã biết từ khi chị mười một tuổi. Tôi đã gọi chị với kính ngữ Señorita trong suốt quãng thời gian chị trưởng thành từ một cô bé thành một thiếu nữ. Khi chị lấy chồng năm ngoái, tôi chuyển sang gọi chị là Señora. Trái lại, chị chỉ luôn gọi tôi là Amabelle.

“Tất nhiên em không gọi cô ta là ‘Beatriz’ trước mặt cô ả rồi,” Mimi giải thích. “Nhưng em thấy việc chúng ta gọi tên cúng cơm 1 của bọn họ thì có gì kinh khủng đâu?”

1 Ở đây ý nói đến tên thánh của những nhân vật được kể đến.

“Như thế là thiếu tôn trọng đối với họ,” tôi đáp. “Nó giống như cách em xưng hô với những bà cụ ngồi đằng kia vậy. Em gọi họ là ‘Man’ mặc dù họ không phải mẹ ruột của em.”

Mimi giật mình và nhìn xuống chuỗi hạt cà phê quanh cổ tay. Ánh mắt cô nhói lên một nỗi đau trong giây lát khi cô liếc nhìn về phía những người đàn bà già nua kia, như thể tìm kiếm nụ cười của mẹ cô bên dưới bộ mặt cau có của họ.

“Nếu Beatriz và bà chủ của chị nổi giận với chúng ta thì có sao chứ?” Cô đáp. “Nếu họ đuổi chúng ta đi, chí ít chúng ta cũng sẽ được hưởng tự do trong vài ngày trước khi chết đói.”

“Anh trai của em trông cậy vào em,” tôi nói, mong muốn chấm dứt cuộc tranh cãi không cần thiết này trong khi có những nỗi đau to lớn hơn cần chú ý đến. “Ngay cả khi anh ấy nợ ngập đầu, em vẫn có thể cho anh ấy được một bữa ăn.”

“Chị cũng có thể làm vậy mà,” cô cự nự.

“Nhưng em là em ruột của anh ấy,” tôi nói. “Với chị, nếu bọn chị cãi nhau, anh ấy sẽ không chịu ăn chung với chị.”

“Cảm ơn chị đã nhắc em nhớ tại sao em phải chịu khổ chịu cực ở trong ngôi nhà của mụ đàn bà đó,” Mimi xẵng giọng. “Khi chị và anh trai em cùng nhau xây dựng gia đình, có lẽ em sẽ được tự do.”

Mọi ánh mắt đều đổ dồn lên Kongo khi ông ấy bước lên từ dưới suối. Ông bước đi, tay vịn vào một khúc cán chổi thay thế cho cây gậy chống. Sebastien và Yves, hai nhân chứng cho cái chết của Joël, nối bước sau Kongo, sẵn sàng đỡ ông ấy nếu ông trượt tay khỏi cán chổi. Đầu Yves cạo trọc và sáng lấp lánh dưới ánh nắng giống như cây mã tấu của Kongo. Anh ta và Sebastien đi theo Kongo về khu nhà máy.

“Bao giờ thì chị và anh Sebastien mới bắt đầu sống chung nhà vậy?” Mimi hỏi. “Nếu anh trai em quá nhát để hỏi, em có thể làm bồ câu đưa thư cho hai người.”

“Hôm qua, bác Juana đã gọi chị là một kẻ vô thần vì chị không cầu nguyện với các vị thánh,” tôi kể. “Bác ấy hỏi chị có tin vào điều gì không, và người duy nhất chị có thể nghĩ đến là Sebastien.”

“Em sẽ phải kể cho anh trai em điều này,” Mimi nói trong lúc tiếp tục nghịch nước. Những người khác ném cho cô một cái nhìn bất bình trước thái độ hớn hở có phần quá mức của cô trong một ngày như thế này. Mimi khoắng tay xuống suối mạnh hơn nữa, rồi vung tay hất nước lên cao tạo thành một tấm màng thuỷ tinh bao bọc quanh mình. Nhìn cô giống như một bức tượng khỏa thân ở những vòi phun nước trên quảng trường với nước róc rách chảy ra từ rốn và miệng.

“Chúng ta không nên ủ dột hay buồn bã,” cô nói. “Joël đã an nghỉ ở một nơi khác rồi. Anh ấy sẽ muốn chúng ta cảm thấy vui mừng cho anh ấy. Chúng ta nên có một lễ truy điệu thật vui vẻ để tiễn đưa linh hồn anh ấy lên đường. Anh ấy sẽ muốn chúng ta cười và biết ơn rằng anh ấy không còn khổ sở ở đây nữa.”

Félice bước ra khỏi dòng nước để đi vào bụi rậm mặc quần áo. Mimi là một trong những người cuối cùng còn ở dưới suối.

“Mimi vẫn còn là một đứa trẻ,” tôi nói, đi theo Félice. “Con bé không biết mình đang nói gì đâu.”

“Đây chắc hẳn là biểu hiện của tuổi già,” Félice nói bằng tông giọng gấp gáp của cô, khiến cho các từ líu lại với nhau. Cô đưa tay lên che cái bớt ở trên miệng trong lúc lựa chọn câu chữ trước khi đẩy chúng ra. “Hồi nhỏ tôi không thể ghét ai cả, còn bây giờ thì tôi hoàn toàn có thể.”

Gục đầu vào vai tôi, cô xiết hai cánh tay quanh sườn tôi và dựa vào người tôi. Cơ thể cô nặng trĩu và mềm oặt đến mức tôi sợ cô sẽ ngất xỉu và lăn ra ngay dưới chân tôi.

“Hãy vững vàng lên nào cô gái,” tôi an ủi, cố gắng vực cô dậy. “Anh ấy còn quá trẻ,” cô nói, “và Kongo thậm chí còn không cho phép chúng ta làm gì hay có bất kỳ phản ứng nào về cái chết của anh ấy.”

“Chúng ta có thể làm được gì đây?”

“Nợ máu phải trả bằng máu, như Mimi đã nói.”

“Chẳng nợ máu nào có thể trả được bằng máu,” tôi can ngăn. “Chúng ta không thể bắt đầu một cuộc chiến ở đây được.”

“Không nhất thiết phải là một cuộc chiến,” cô đáp, “chỉ cần một điều gì đó để dạy cho họ rằng mạng sống của chúng ta cũng đáng giá như của họ.”

“Điều này sẽ giúp ích gì được cho Joël chứ?”

“Chẳng điều gì có thể giúp được Joël nữa,” Félice nói. “Đã quá muộn đối với anh ấy rồi. Nhưng chúng ta nên làm gì đó để ngăn chặn chuyện tương tự xảy ra với những người khác.”

Cô tách người ra khỏi tôi để đứng trên hai chân mình.

“Chúng ta phải để mọi sự cho Kongo quyết định,” tôi nói. “Con trai ông ấy là người tử nạn. Ông ấy sẽ biết điều tốt nhất cần phải làm là gì.”