← Quay lại trang sách

Chương 27

Bóng tối mỏng dần thành bình minh màu xám tro. Trước mặt chúng tôi hiện ra một dòng suối. Yves quỳ xuống vục một ngụm nước đầy và súc miệng. Tôi úp mặt xuống suối để cho dòng nước lạnh buốt giúp tôi bừng tỉnh khỏi cơn buồn ngủ.

“Anh nghĩ bao giờ chúng ta sẽ đến được biên giới?” Tôi hỏi. “Trong đêm nay,” anh trả lời, đưa tay ra sau lưng để chắc chắn rằng thanh mã tấu vẫn còn ở đó.

Anh đứng dậy và tiếp tục cuộc hành trình. Nước từ tóc tôi nhỏ giọt xuống thấm vào áo chẽn, khiến lớp vải cốt-tông mỏng của bộ quần áo người làm màu xám dính vào da tôi.

Một ngã tư tách con đường của chúng tôi thành hai hướng: một nhánh quay trở lại thung lũng, nhánh còn lại dẫn về phía những ngọn núi. Từ sau lưng, chúng tôi nghe thấy tiếng một chiếc xe bò lọc cọc xuống dốc. Chúng tôi vội nấp vào sau một bụi cây khổ sâm rậm rạp để chờ cho chiếc xe đi qua.

Một tấm vải bọc lớn may từ bao tải đường màu nâu che phủ thùng xe. Hai con bò đực to béo phì phò kéo chiếc xe về phía trước. Những túi nước treo lủng lẳng bên hông chúng va đập vào các nếp gấp thịt trên bụng hai con vật. Cặp sừng của chúng bị buộc chặt và hai miếng gỗ được đặt ở gần mắt để ngăn chúng nhìn ngó lung tung.

Đi bên cạnh chiếc xe là hai người đàn ông. Áo của họ sơ vin chỉnh tề. Ống quần họ xắn cao đến bắp chân để lộ bàn chân lấm bùn. Trên lưng họ đeo những khẩu súng trường và trong tay họ cầm những cuộn roi.

Chiếc xe đột ngột dừng lại. Bánh xe bị kẹt vào ổ gà nơi triền dốc đổ xuống một con đường trong thung lũng. Một trong hai người đàn ông quất roi xuống đất, rủa sả những con bò ù lì chậm chạp. Hai con vật tội nghiệp vật lộn giơ hai chân trước lên để thoát ra nhưng vẫn không thể kéo được chiếc xe ra khỏi ổ gà.

Từ phía sau thùng xe, một cô gái chừng mười bảy, mười tám tuổi rớt phịch xuống đất. Tôi ngỏng đầu lên để nhìn cô ấy được rõ hơn. Yves ấn vội vai tôi xuống, nhưng tôi vẫn có thể nhìn thấy cô ấy. Cô mặc một cái váy màu vàng cam với một mảnh khăn đội đầu màu tím bằng vải thưa. Trên thái dương và vai cô đầy những vết chém mã tấu.

Khuôn mặt cô nứt toác ra khi cô ngã dập xuống đất, xương gò má phải của cô lòi ra dưới lớp thịt đã bắt đầu thối rữa. Người cô lăn vài vòng, và trong giây lát cô ngửa mặt lên nhìn về phía bầu trời. Cô tiếp tục lăn qua bụi cây khổ sâm và xuống một con dốc. Bụi đất của ngọn núi bám đầy lên váy, cánh tay, và mặt cô. Chẳng mấy chốc, cả người cô bị bao phủ bởi một lớp bụi đất dày.

Những người đàn ông không nhận ra rằng cô gái đã rơi khỏi chiếc xe. Họ giơ roi lên tiếp tục quất một cách điên cuồng, nhưng những con bò vẫn không động cựa nổi. Cuối cùng, họ phải chạy ra phía sau để ủn chiếc xe.

“Tấm vải bọc bị hở rồi,” một người trong bọn họ nói, nhét tấm vải bố vào phía trong thùng xe.

Có tiếng động đậy dưới tấm vải. Một tiếng rên khẽ phát ra từ bên trong thùng xe. Một trong những người đàn ông cầm một hòn đá to bằng nắm tay lên và nện lên đầu – hay có thể là khuỷu tay – của người đang rên rỉ dưới tấm vải. Không còn tiếng cựa quậy nào sau đó nữa. Người đàn ông quẳng viên đá đi, rồi tiếp tục đẩy chiếc xe ra khỏi ổ gà. Sau đó, hai con bò tiếp tục công việc của mình và kéo chiếc xe qua cánh đồng, về phía thung lũng bên dưới.

Tiếng những con gà trống gáy vang vọng khắp núi đồi. Xác chết của cô gái xấu số đã lăn khỏi tầm mắt của chúng tôi. Có lẽ cô đã rơi xuống một trong các hẻm núi và nằm lại dưới một con lạch nào đó.

Vẫn còn tê cứng trong sự bàng hoàng kinh hãi, Yves lên tiếng, “Chí ít thì chúng ta đã sống sót qua hết đêm.”

Ngôi làng trên núi đầu tiên mà chúng tôi đặt chân tới lác đác những căn nhà nhỏ được chống đỡ trên những cây cột. Mỗi nhà chỉ có một phòng, mái nhà được lợp bằng lá dừa và rơm rạ. Một hàng những người bán rong đứng đằng sau những quầy hàng xập xệ làm bằng gỗ bên vệ đường. Phía sau lưng họ, tôi có thể nhìn thấy thung lũng. Từ độ cao này nhìn xuống, mọi thứ bên dưới dường như nhỏ bé hơn.

Yves dùng một trong hai đồng peso của anh để mua vài nải chuối, vài trái mận dừa, và vài quả xoài nhỏ. Anh nhét tất cả chỗ hoa quả vào trong túi quần. Anh đưa cho tôi một ít, nhưng tôi không còn bụng dạ nào để ăn cả.

Trong lúc Yves ăn, một đoàn lễ diễu hành đi ngang qua chúng tôi. Đi đằng trước là ba người đàn bà đang cùng nhau bưng bức tượng của Đức Mẹ trong một cái hộp kính chạm khắc và được che phủ bởi một lớp vải lanh trắng. Những người đàn bà thì thầm cầu nguyện dưới hơi thở và đưa ngón tay lần tràng hạt. Giữa những lời khấn nguyện và cầu xin, một vài người bọn họ trông giống như đang trong cơn đồng nhập.

Một sự đồng điệu giữa những người đàn bà thống khổ chắc hẳn phải tồn tại vì khi nhìn họ, tôi biết chắc chắn những người đàn bà này đang cầu nguyện điều gì trước cả khi lời thì thầm của họ đến được tai tôi. Buổi lễ cầu nguyện này nhằm mang người tình nhân đã rời bỏ họ quay trở lại, trợ duyên cho con cái của họ nên vợ nên chồng, giúp những đứa trẻ đang đau ốm chóng khỏi bệnh, và cuối cùng để phù hộ cho những người thân yêu đã lãng quên họ để đi tìm một cuộc sống mới nơi phồn hoa đô hội.

Một người trong số họ, người đàn bà đứng cuối đoàn, một tay dắt một con la còn tay kia bưng một tấm chân dung của Generalissimo. Bà ta đang cầu nguyện cho ông ta có sức khỏe tốt và thượng lộ bình an trên con đường đời. “Hãy để cho ngài tiếp tục dẫn dắt chúng con với một bàn tay rắn chắc và một trái tim không kém phần cương nghị,” bà ta khẩn cầu.

Bỏ lại ngôi làng phía sau lưng, chúng tôi đi bộ xuống một triền núi đầy sỏi đá. Chúng tôi im lặng bước đi một lúc lâu. Mặt trời chiếu xuống những tia nắng cháy gắt và chúng tôi thì chẳng mang theo mũ hay ô để che đầu.

Tôi buộc túm gấu váy lại và kéo nó lên đến tận đùi. Yves nhìn thấy tôi qua khóe mắt và anh giả vờ không trông thấy lớp vải sột soạt trên làn da đang bong dần từng mảng đằng sau chân tôi.

Khi đã đến chính ngọ, chúng tôi dừng lại nghỉ chân bên một vách núi. Tôi đưa tay giật một búi cỏ dại và hoa bồ công anh mọc giữa những khe đá, nhớ lại cách mà cha tôi hay gọi chúng là “pissanwit”. Ông dạy tôi rằng để chữa bệnh đái dầm của trẻ con, ta chỉ cần thổi những hạt bồ công anh bông xốp mỏng manh theo cơn gió.

Một bầy chim báo mưa kêu la ỏm tỏi trong lúc bay ngang đầu chúng tôi. Trong bầy chim, tôi nhìn thấy những con chim nhạn đuôi chẻ, chim én, theo sau là một đàn chim chích màu vàng. Chúng ung dung bay lượn theo cơn gió trên những ngọn núi, nhẹ nhàng như thể đôi cánh của chúng không mang trọng lượng.

Yves tựa lưng vào một tảng đá và nhắm mắt lại. Tôi ngồi cách anh vài bước chân, mắt nhìn xuống vùng đất bên dưới, những đầm nước, những ruộng cây thuốc lá và cây mía, cùng những ngôi nhà nhỏ bé lấm chấm nơi chân đồi.

Ba người đàn bà và hai người đàn ông đang bước từng bước nặng nề trên một con đường nhỏ hẹp dẫn về chỗ chúng tôi. Họ giống như những mảnh ghép rời rạc của một gia đình, ngoại trừ việc hai trong số ba người đàn bà có mái tóc xoắn lọn màu vàng bí ngô. Hai người đó trông có vẻ giống dân Dominicana – hoặc lai giữa Haiti và Dominicana. Đối với vài người ở đây, rất khó để có thể đoán được gốc gác của họ là gì.

Người đàn ông đi đầu nhìn thấy tôi. Cả đoàn bọn họ rảo bước lên đỉnh đồi một cách đầy trông đợi. Mỗi người bọn họ đều mang theo một bọc đồ, ngoại trừ một người thanh niên nhỏ thó chân đi cà nhắc. Anh ta đã cởi áo ra và quấn quanh đầu để chống lại cái nóng. Người thanh niên này khá trẻ với hai cánh tay không đều nhau, một cái cuồn cuộn cơ bắp còn cái kia lại tong teo ốm yếu, chỉ có da bọc xương.

“Bây giờ thậm chí tôi còn ở gần mặt trời hơn nữa,” người đàn ông dẫn đầu than phiền khi họ đến được chỗ tôi và Yves. Anh ta có một giọng nói trầm bổng của những thầy tu sanba khi họ hát nói.

“Quanh đây chẳng có lấy một bóng râm nào cả,” người đàn bà đi cạnh anh ta kêu ca. Cô ấy đang tự quạt mát bằng cổ áo rộng hình cánh bướm. Cô và người đàn ông kia có cùng âm điệu trầm bổng trong giọng nói, khiến thoạt đầu tôi tưởng rằng họ là anh chị em. Nhưng tôi nhận ra mình đã nhầm. Cô ấy là người đàn bà của anh ấy, và anh là người đàn ông của cô.

Tiếng trò chuyện làm Yves giật mình tỉnh dậy. Tôi hỏi người đàn ông với giọng nói mượt mà của một sanba, “Nhóm của anh từ đâu đến vậy?”

Anh và người đàn bà của mình, Odette, đến từ một nhà máy mía đường lớn của dân Yanki Bắc Mỹ ở phía bên kia hòn đảo.

“Chúng tôi nghe nói rằng ở trong những khu nhà máy lớn thì sẽ an toàn hơn,” tôi nói. “Tại sao mọi người không ở lại đó?”

“Cứ để mặc họ nói những gì họ muốn,” Odette trả lời, liếc xéo về phía tôi như để răn đe sự ngu muội trong câu hỏi của tôi. Cô xoay một vòng tại chỗ và hít vào một cơn gió nhẹ thoảng qua. Chỉ có cô và Wilner, người đàn ông với chất giọng sanba của cô, là cùng đến từ một nhà máy. Họ gặp những người còn lại trên đường đi, như cách họ gặp được chúng tôi, Odette giải thích.

Hai người đàn bà với bộ tóc màu bí ngô và người thanh niên với hai cánh tay không đều nhau ngồi thụp xuống để nghỉ chân. Họ chia sẻ với nhau thức ăn gói trong đùm lá chuối và uống từ những bi đông cũ kỹ và một bình da đựng rượu.

“Anh có phải một người số đỏ không?” Wilner hỏi Yves.

Yves bật cười ha hả. “Tại sao anh lại muốn biết điều đó?” Anh hỏi.

“Tôi muốn biết vận may của một người như thế nào trước khi tôi chọn đi cùng với anh ta,” Wilner trả lời.

Tôi xích lại gần người đàn ông với hai cánh tay không đều nhau. Tôi bị anh ta thu hút, một phần vì tính tò mò nhưng cũng bởi tôi cảm thấy tội nghiệp anh ta. Tôi muốn nghe anh ta giải thích chuyện gì đã xảy ra với mình. Có phải anh ta bị như vậy là do bệnh lao hay một loại bệnh teo cơ nào đó? Hay là vì anh ta chỉ tập trung dùng một tay cắt mía mà bỏ quên tay kia? Có phải anh ta sinh ra đã như vậy rồi không?

Người thanh niên dường như không để ý đến dị tật của mình cho đến lúc có ai đó nhìn chăm chăm vào nó. Anh ngồi thẳng lưng dậy và ưỡn ngực ra để cho hai cánh tay trông có vẻ cùng kích thước.

Yves và Wilner đang bàn bạc với nhau xem nên chọn đi đường nào để đến biên giới nhanh hơn. Wilner đã đi qua con đường núi này ít nhất một lần nhưng không thể nhớ chính xác cung đường anh đã đi. Odette nhớ lại rằng có một số ngôi làng trên những ngọn đồi, nơi chúng tôi tốt nhất nên tránh xa. Tuy nhiên, bọn họ không đồng ý với nhau về việc cuộc hành trình sẽ kéo dài bao lâu.

“Chúng ta sẽ tới được biên giới trước khi mặt trời lặn tối nay,” Yves quả quyết.

“Anh tính nhầm rồi anh bạn,” người thanh niên với hai cánh tay không đều la lớn. “Phải mất ít nhất là hai ngày chúng ta mới mong đi qua hết những dãy núi này,” anh ta quả quyết, “và chúng ta cũng không muốn ở gần biên giới khi đêm xuống đâu.”

Hai người đàn bà tóc màu bí ngô lắng nghe chăm chú, ngay cả khi họ đang chia nhau phần thức ăn nước uống ít ỏi.

“Vậy thì chúng ta không nên lãng phí thời gian nữa,” Yves bắt đầu đi tiếp. “Nếu chúng ta chỉ dừng lại nghỉ chân vào ban đêm, cuộc hành trình sẽ ngắn đi rất nhiều.”

“Tên tôi là Tibon,” người thanh niên nói và chìa cánh tay bị tật về phía tôi.

“Anh đã đi trong bao lâu rồi Tibon?” Tôi hỏi anh ta. “Tôi đã cuốc bộ trong năm ngày rồi,” anh đáp.

“Anh có nhìn thấy ai bị bắt không?” Tôi hỏi tiếp.

“Tôi đang trên đường về nhà máy nơi tôi làm việc,” anh hồi tưởng, “sau khi đi mua than khi hai tên lính túm lấy tôi và quẳng tôi lên một cái xe tải đầy người. Những người chống cự bị bọn lính quất bằng lưỡi lê cho đến khi họ chấp nhận số phận. Sau khi tất cả chúng tôi bị nhồi lên xe, một vài người đã ngắc ngoải và số còn lại thì không biết máu trên người mình là của ai với ai nữa. Bọn chúng đưa chúng tôi đến một vách đá cao ở La Romana nơi vùng biển đầy những con sóng dữ. Chúng bắt bọn tôi đứng thành từng nhóm sáu người ở mỏm đá, và bắt chúng tôi chọn hoặc nhảy xuống hoặc phải vượt qua một hàng rào những tên lính cầm lưỡi lê và vài người dân thường lăm lăm mã tấu phía sau. Bọn lính đã dạy cho họ cách chém mã tấu sao cho đầu chúng tôi lìa khỏi cổ một cách dễ dàng nhất.” Tibon dùng cánh tay xương xẩu chém một đường mã tấu vào xương đòn gánh. “Chúng bắt từng nhóm sáu người dàn hàng ngang ở bên bờ vực,” anh kể tiếp. “Sau đó chúng quay về xe tải bắt thêm người. Cứ thế, chúng lần lượt thanh toán một nhóm, rồi một nhóm nữa, rồi một nhóm nữa.”

Tôi không nhớ nổi bao nhiêu lần anh ta nhắc đến những nhóm sáu người. Tai tôi ngừng nghe Tibon nói trong phút chốc và cố gắng tưởng tượng ra giọng nói của Sebastien, trấn an tôi rằng anh vẫn còn sống. Tôi biết rằng đây là điều mà anh lo ngại nhất, rằng tôi sẽ không biết chuyện gì đã xảy ra với anh và có thể sẽ nghĩ rằng việc anh biến mất là lỗi của tôi. Nhưng anh chưa hề biến mất. Tôi muốn tin vào điều này và cố gắng mường tượng trong đầu giọng nói cũng như gương mặt của anh, cái đêm mà anh tìm đến tôi để thông báo rằng Joël đã chết, những đêm khác khi tôi đến gặp anh trong phòng để xua tan đi nỗi mệt mỏi chán chường của anh, những đêm khi anh bị ám ảnh bởi mùi mía nồng nặc bám dính trên người, trong phòng anh, trong quần áo anh, trong cơn gió, thậm chí cả trong tóc anh, và những buổi sáng khi anh thức dậy và nguyền rủa tiếng cắt mía vì nó làm anh nhớ tới tiếng khô khốc của những cái chân gà bị bẻ gãy.

Tibon tiếp tục liệt kê những nhóm sau đó, hết sáu người này lại tới sáu người khác.

“Cuối cùng, bọn chúng bắt đến tôi,” anh nói.

Những người khác quay đầu lại nghe anh kể. Họ lắng nghe chăm chú, dường như không cưỡng lại được. Chỉ có mình Yves là không tỏ ra quan tâm tới câu chuyện. Anh lặng lẽ rảo bước, mắt nhìn thẳng vào con đường trước mặt.

“Khi tôi nhảy khỏi mỏm đá,” Tibon nói, “tôi tự nhủ với bản thân rằng mình sẽ không khiếp sợ. Tôi tự nhủ với mình, Tibon, ngày hôm nay mày và loài chim kia sẽ hòa làm một. Người ta nói rằng một con chim chỉ biết đứng trên hai chân mà không tung cánh bay là một con chim lười biếng. Tibon, tôi nói với chính mình, hôm nay mày sẽ là một cánh chim.”

Anh dang rộng hai tay như những cánh bướm hiếm hoi lướt qua chúng tôi trong giây lát, như muốn thử sức với đôi cánh mới của mình trước những cơn gió hung bạo trên đỉnh núi.

“Quãng đường từ mỏm đá xuống đến biển rất dài,” anh kể tiếp. “Tôi cứ rơi mãi rơi mãi, băng qua cả những hòn đá nơi nhiều người bỏ xác lại. May mắn thay, tôi lại rơi xuống nước. Tôi cảm nhận rõ ràng lúc cơ thể mình tiếp nước vì nó sắc lạnh đến tê buốt như thể cả mặt biển là một thanh mã tấu khổng lồ vậy. Trên người tôi vẫn còn nhiều vết cắt do nước để lại. Cổ chân tôi thì bị dập, thế nên giờ tôi mới đi cà nhắc như thế này.”

Anh kéo ống quần lên để cho tôi nhìn thấy rõ những vết cắt trên cổ chân, nhiều vết rất sâu đã đóng vảy và dính đầy bụi đỏ từ những con đường khác nhau mà anh đã đi qua.

“Lúc này tôi đang bơi trong nước,” anh tiếp tục, “nhưng khi nhìn về phía bãi biển, tôi trông thấy những người nông dân đang cầm dao chờ sẵn. Một vài người bọn họ còn lội xuống nước để đuổi theo chúng tôi và tìm những chỗ gần cổ mà họ được dạy chém mã tấu vào đó để cắt đầu chúng tôi. Tôi bơi ra xa về phía một hang động bên vách vực. Tôi bám chặt vào một hòn đá và chống chọi lại với sóng nước cho tới khi đêm xuống. Cùng với một người sống sót khác, tôi tìm đường quay trở lại. Người bạn đồng hành của tôi cho rằng việc đi tiếp còn khổ sở hơn những hòn đá mà chúng tôi đã suýt bỏ xác lại nên đã quyết định quay trở lại nhà máy. Nhưng với tôi, tôi thề từ giờ cho đến khi tôi trút hơi thở cuối cùng, nếu phải chết, tôi sẽ chết trên hai bàn chân mình.”

Người đàn bà tóc bí ngô ngồi cạnh tôi bật khóc. Cả người cô ta sụm xuống, mặt rũ xuống sát ngực, còn má thì phồng lên như đang kiềm chế cơn buồn nôn. Tuy thế, những giọt nước mắt của cô vẫn tuôn ra một cách im lặng và tế nhị. Cô át tiếng khóc của mình bằng cái khăn mùi xoa của đàn ông, với cái tên Ilè thêu ở bốn góc.

Người đàn bà tóc bí ngô còn lại xích lại gần và quàng tay quanh người em gái mình.

Khi cô ta nhận thấy tôi đang nhìn họ, cô chỉ tay về phía Yves và hỏi tôi bằng tiếng Tây Ban Nha, “Anh ta có phải người đàn ông của cô không?”

“Không,” tôi trả lời.

“Tôi cứ tưởng anh ấy là người đàn ông của cô chứ,” Tibon nói, “Cái cách anh ấy nhìn cô giống như là anh ấy có thể dùng mắt mình che chở cho cô vâỵ.”

“Tôi đã đính ước với một người khác rồi,” tôi đáp.

“Người đàn ông đã đính ước với cô giờ ở đâu? Anh ấy đã bị bắt rồi à?” Người đàn bà đang vỗ về em gái mình hỏi tiếp.

“Đó là những gì tôi nghe được,” tôi trả lời.

“Tôi là Dolores. Đây là em gái của tôi, Doloritas (1) ,” cô ta nói sau một phút im lặng. “Mẹ chúng tôi phải chịu nhiều đau đớn mỗi lần sinh con nên bà đã đặt cho chúng tôi những cái tên buồn thảm như vậy.”

(1) Tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa là nỗi buồn (dolores) và nỗi buồn nhỏ (doloritas).

Doloritas nuốt một tiếng nấc nghẹn trong cổ họng, kéo chiếc khăn mùi xoa khỏi mặt rồi hỏi, “Tên cô là gì?”

“Người ta gọi tôi là Amabelle,” tôi đáp.

“A, Amabelle, tên cô nghe như một ngụm nước mát trong mùa hạn hán vậy,” Tibon cười và nói.

“Chuyến đi của cô kéo dài bao lâu rồi?” cô chị gái tóc bí ngô hỏi tiếp bằng tiếng Tây Ban Nha. Dường như cả hai chị em họ đều không biết tiếng Kreyòl.

“Mới chỉ một ngày thôi,” tôi đáp.

“Chị em bọn họ đã đi với chúng tôi được ba ngày rồi,” Tibon nói. Doloritas lại tiếp tục đưa khăn mùi xoa lên lau những giọt nước mắt đang rơi lã chã.

“Cô đừng khóc nữa, Doloritas,” Tibon an ủi. “Hãy để dành một vài giọt nước mắt hạnh phúc khi chúng ta tìm được người đàn ông của cô chứ.”

Doloritas bỏ khăn mùi xoa xuống trong lúc ngẫm ngợi về điều Tibon vừa nói. Nếu một người tàn tật như Tibon có thể trốn thoát, thì chắc hẳn người đàn ông của cô cũng có cơ hội chứ?

“Chúng tôi là người Dominicana,” Dolores giải thích.

“Bọn họ đã bắt anh ấy đi,” Doloritas thêm vào. “Họ ập tới trong đêm và lôi anh ấy ra khỏi giường của chúng tôi.”

“Chúng tôi vẫn chưa học được cách nói ngôn ngữ của cô,” Dolores nói.

“Anh ấy và tôi vừa mới chung sống được sáu tháng,” Doloritas nói. “Tôi đã hứa với anh ấy là sẽ học tiếng Kreyòl để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm gia đình anh ấy ở Haiti.”

“Tôi hoàn toàn không biết gì cả,” Dolores nói tiếp. “Sau khi họ bắt anh ấy đi, Doloritas cứ như người mất hồn. Con bé nằng nặc đòi đi đến biên giới để tìm người yêu. Tôi không thể để nó đi một mình trong tình trạng như vậy.”

“Tên anh ấy là gì?” Tôi hỏi, nhìn thẳng vào đôi mắt đỏ mọng của Doloritas. “Người đàn ông của cô, anh ấy tên gì?”

“Chúng tôi gọi anh ấy là Ilè,” cô nói và đưa cho tôi xem tên anh ta được thêu bằng chỉ trên chiếc khăn mùi xoa đẫm nước mắt. “Ilè là tên biệt danh của Ilestbien. Anh ấy nói với tôi rằng nó có nghĩa là ‘anh ấy vẫn ổn’.”

Chúng tôi đi hết cả buổi chiều mà không hề dừng lại. Mặt trời đôi lúc đùa giỡn với chúng tôi bằng cách nấp sau những đám mây dày trong một lúc lâu.

Không khí trên đỉnh núi bắt đầu se lạnh khi hoàng hôn ập xuống. Vì đã thấm mệt nên chúng tôi không ai còn thiết chuyện trò với nhau nữa. Vả lại, những câu chuyện của chúng tôi chẳng làm được gì ngoài việc khiến người khác cảm thấy đau đớn hơn mà thôi.

Thỉnh thoảng, Tibon lại phá vỡ bầu không khí im lặng.

“Mọi người đều đang kháo nhau rằng Generalissimo đang ở biên giới ngay lúc này. Có khi lão đang ở đó để chờ đón chúng ta cũng nên.” Anh nói như phun từng chữ trong lúc chờ đợi một câu trả lời, một tiếng đồng ý, hay một lời cự cãi.

Yves quay đầu nhìn về chỗ tôi đang đi bên cạnh hai người đàn bà Dominicana, với Tibon tập tễnh đằng sau lưng. Mặt anh thoáng vẻ thất vọng, như thể không tin được là tôi đã bỏ rơi anh sớm thế để đi tìm những người bầu bạn mới.

“Quá nhiều người chúng ta phải ở đây vì chính đất nước chúng ta – chính phủ của chúng ta – đã bỏ mặc chúng ta,” Tibon lại tiếp tục, nhưng vẫn không có một ai đáp lại anh. “Những người nghèo như chúng ta bị bán làm nô lệ trên ruộng mía để chính đất nước chúng ta không phải bận tâm tới chúng ta nữa.”

Mặt trời đang lặn xuống, và những thung lũng phía xa bên dưới đang nhạt nhòa dần vào hư không. Bóng đêm làm cho giọng nói của Tibon vang vọng một cách ma quái, như thể có nhiều người đang cùng lúc lặp lại cùng một câu nói.

“Sự thống khổ của những người nghèo đến từ chính cái nghèo của họ,” Tibon tiếp tục. “Một người nghèo, cho dù là ai đi nữa, sẽ luôn bị những người hàng xóm của anh ta ghét bỏ. Khi anh nán lại quá lâu ở nhà một người hàng xóm, lẽ tất nhiên là họ sẽ trở nên lo ngại và bắt đầu căm ghét anh.”