← Quay lại trang sách

Chương 26

Bác sĩ Javier ghé qua chiều hôm đó để khám sức khỏe cho Rosalinda. Bác Juana đang ở trong bếp còn bác Luis thì đang quét dọn ngoài sân.

Khuôn mặt của bác sĩ Javier mang dáng vẻ mệt mỏi. Bờ vai rộng của ông rũ xuống uể oải lúc đi vào nhà.

“Xin cô hãy nghe tôi nói đây,” ông nói thầm với tôi bằng tiếng Kreyòl. “Cô phải rời khỏi ngôi nhà này ngay lập tức. Tôi vừa nhận được tin từ một vài người bạn ở biên giới. Theo mệnh lệnh của Generalissimo, binh lính và dân thường đang truy sát những người Haiti. Có lẽ chỉ trong vài giờ nữa thôi bọn họ sẽ ập tới thung lũng này.”

Điều này không thể là sự thật. Tôi tưởng chúng chỉ là những tin đồn. Những tin đồn vẫn luôn lảng vảng từ trước đến giờ, về chiến tranh bùng nổ, về tranh chấp đất đai, về việc nửa bên này của hòn đảo sẽ xâm chiếm nửa bên kia. Chúng chỉ là những ảo tưởng bá quyền của các vị tổng thống mong muốn thôn tính toàn bộ hòn đảo. Chẳng có lẽ nào chúng lại ảnh hưởng đến những người như tôi, hay những người làm việc trên ruộng mía như Yves, Sebastien, và Kongo. Họ đã đóng góp sức lao động của mình cho xứ sở này.

Những người Dominicana cần đường từ cây mía cho tách cà phê sáng hay món caramel của họ. Bọn họ cần món tiền hời từ những thân mía cơ mà.

“Pico có ở đây không?” Ông bác sĩ hỏi. “Cậu chủ đã đi tới biên giới rồi,” tôi đáp.

“Biên giới sao,” ông nói, như thể đó là bằng chứng cuối cùng mà ông cần để xác thực câu chuyện của mình. Ông đang cố làm cho tôi nhìn ra sự thật qua những giọt mồ hôi lấm tấm trên mặt. Hàng lông mày chau lại và những cử chỉ vội vã của ông muốn thuyết phục tôi rằng hãy tin tưởng ông nếu có thể. Ngoài tôi ra, ông còn phải báo tin cho rất nhiều người khác nữa.

“Cô sẽ đi chứ?” Ông hỏi.

Tôi muốn được nghe nhiều lời cảnh báo khác nữa. Tôi cần phải biết chính xác chuyện gì là sự thật và chuyện gì là bịa đặt. Mọi việc đang trở nên quá kỳ lạ. Liệu ông bác sĩ có phải là một phần của kế hoạch giết chóc này không?

“Tôi không thể bỏ rơi người đàn ông của mình và em gái anh ấy,” tôi đáp.

“Một nhóm lớn sẽ cùng vượt biên với tôi vào tối nay,” ông thông báo. “Chúng tôi đã chuẩn bị hai chiếc xe tải. Tôi có thể sắp xếp chỗ cho họ. Chúng ta sẽ tập hợp trước nhà thờ. Tôi đã bàn bạc với Cha Romain và Cha Vargas. Họ sẽ tổ chức một buổi lễ cầu nguyện cho Thánh nữ Teresa 1 vào tối nay. Cũng gần tới thời điểm tổ chức lễ Tạ ơn cho bà ấy rồi. Chúng ta sẽ giả bộ đến đó để dự lễ.”

1 Thánh nữ trong đạo Công giáo, bảo hộ cho những người đang gặp những chuyện đau đầu rối trí.

Tôi chẳng biết gì về bà thánh Teresa này cả. Có lẽ sẽ có ích cho tôi nếu tôi biết nhiều hơn về những vị thánh được bác Juana và cả thung lũng này yêu mến và phụng thờ. Vừa lúc đó, Señora Valencia xuất hiện ở hành lang dẫn tới phòng ngủ của chị.

“Có chuyện gì mà ông phải thì thầm vậy, Javier?” Señora lên tiếng hỏi.

“Tôi không biết rằng con gái cô có đang ngủ hay không,” ông bác sĩ vội đáp. “Nếu con bé đang ngủ, tôi không muốn đánh thức nó.”

“Con gái tôi ngủ rất sâu,” señora đáp một cách tự hào. Chị quay sang tôi, vừa chải những ngón tay lên mái tóc dày vừa gãi đầu. Chị hỏi, “Amabelle, Papi đã về nhà chưa?”

Cứu em với, Señora, tôi muốn kêu lên với chị, nhưng chị có thể làm được gì? Liệu chị đã biết được bao nhiêu phần của những việc đang xảy ra? Liệu chị có đủ dũng cảm để che chở cho tôi trước chồng chị nếu tôi cần chị làm thế?

“Papi đi lâu thế này làm chị không yên tâm chút nào,” chị nói trước khi mời bác sĩ vào phòng nơi Rosalinda đang nằm ngủ.

Tôi cố gắng vạch lên một kế hoạch. Hãy bình tĩnh, tôi tự nhủ. Tôi phải hành động hết sức bình tĩnh.

Phòng trừ trường hợp ông bác sĩ nói đúng, tôi đi về phòng, khâu túm góc một cái váy lại thành một cái bọc, và gói ghém vào trong đó một vài thứ: chiếc mặt nạ hình Joël của Kongo, chiếc áo của Sebastien còn dang dở từ ngày những đứa con của señora chào đời, và một bộ váy áo để thay. Nếu ông bác sĩ nói sai, tôi luôn có thể quay trở lại. Cẩn thận không bao giờ là thừa cả.

Tôi đi xuống chân đồi và giấu cái bọc vào một khe hở nhỏ giữa những bụi chuối um tùm đằng sau nhà của bác Juana và bác Luis, sau đó quay trở lại ngôi nhà lớn.

Señora Valencia đang ngồi trong phòng khách với ông bác sĩ. “Papi vẫn chưa về sao?” Chị lên tiếng hỏi tôi.

“Chưa, thưa Señora.”

“Em làm ơn hãy bảo Luis đi tìm ông ấy về.”

Trước tiên bác sẽ tới nhà thờ, bác Luis nói, nơi Papi thỉnh thoảng đến cầu nguyện. Sau đó bác sẽ đi ra nghĩa trang, nơi Papi có thể sẽ tạt qua để viếng thăm mộ của vợ, con trai, và cháu trai. Señora không cần phải lo lắng quá về việc Papi dạo chơi, nhưng nếu chị muốn bác ấy đi kiếm Papi thì bác ấy sẽ đi kiếm.

Tôi giả vờ đi theo giúp bác Luis, rồi sau đó chạy đi tìm Sebastien. Anh vừa trở về từ ruộng mía. Toàn thân anh ướt đẫm mồ hôi như vừa dứt khỏi một trận sốt nặng. Anh tựa lưng vào tường để cảm nhận chút ít gió mát từ bên ngoài. Những phiến gỗ tuyết tùng của Papi vẫn nằm ở góc phòng.

Tôi ngồi lặng yên bên cạnh Sebastien một lúc lâu. Tôi có thể cảm nhận được anh đang quá mệt mỏi để có thể lắng nghe, và tôi không muốn bắt đầu cho tới khi anh đã sẵn sàng. Vả lại, tôi cũng không muốn nói với anh những điều mà tôi sắp sửa phải nói.

“Em đã giữ được ba chỗ cho anh, em, và Mimi trên một chiếc xe tải vượt biên vào tối nay,” cuối cùng tôi lên tiếng.

“Anh đã nghe về kế hoạch của ông bác sĩ trong buổi lễ cầu nguyện cho Thánh nữ Teresa, bông hoa bé nhỏ,” anh nói.

“Ông bác sĩ đề nghị em tới làm việc cho một trạm xá nơi em sẽ làm những công việc trước kia của cha mẹ em,” tôi nói tiếp. “Em nghĩ tốt nhất chúng ta nên đi với ông ấy. Nếu ông ấy dự đoán sai, chúng ta vẫn có thể quay trở lại.”

“Em cứ một mực không tin rằng những người đó có thể làm hại em,” anh nói với một nét mặt nhăn nhó đến gần như căm tức, như thể anh đang chuyện với một ai khác chứ không phải tôi. “Ngay cả khi họ giết Joël, em vẫn nghĩ rằng họ sẽ không làm gì tổn hại tới em.” Bàn tay anh siết chặt lại thành nắm đấm như mỗi lần anh cố kìm nén cơn giận dữ. Tôi cầm lấy nắm tay anh, gỡ nó ra, và nhìn ngắm lòng bàn tay nơi đường chỉ tay đã bị những thân mía xóa nhòa. Có lẽ tôi đã tin tưởng quá nhiều. Tôi đã sống trong những giấc mơ dai dẳng, trong những ký ức của một đứa bé mồ côi. Khi thực tại trở nên quá kinh hoàng, có lẽ tôi đã chọn cách cố tình không nhìn thấy nó.

“Xin hãy tha thứ cho em, Sebastien,” tôi khẩn cầu, “vì đã tin tưởng quá nhiều.”

Anh thả lỏng nắm đấm vào trong bàn tay tôi khép chặt. Ngực tôi thắt lại vì một nỗi sợ mà tôi mới chỉ cảm thấy một lần trước đó khi cha mẹ tôi chết đuối: một cảm giác khiếp sợ như khi một cơn gió mạnh đóng sập cửa phòng sau lưng bạn và làm cho bạn cảm thấy bị sập bẫy ở bên trong.

“Chúng ta nên đi nói chuyện với Kongo,” Sebastien quyết định. “Chiều nay ông ấy có một cuộc viếng thăm từ ông chủ nhà em trong lúc làm việc trên cánh đồng.”

“Papi ư?”

“Ông ta trả một ít tiền cho đám lính gác để Kongo đi cùng với ông ta, và Kongo đã đồng ý.”

Chúng tôi đi đến phòng của Kongo, nơi ông đang ngồi cùng với Yves. Trước mặt hai người là một đống quả hạnh nhân mà họ chuẩn bị đập vỏ. Trên mặt Kongo hiện lên vẻ thư thái, như thể ông chưa hề đi ra đồng cả ngày hôm nay. Trên đùi ông là những sợi liễu gai xếp thành đống để dành đan thúng.

Sebastien và tôi ngồi xuống thành vòng tròn xung quanh đám sợi liễu gai và quả hạnh nhân, như thể chúng là những vật thờ phụng.

“Don Ignacio, cha của Señora Valencia, đã đến gặp ông hôm nay ư?” Tôi hỏi Kongo. “Ông có biết ông ấy giờ đang ở đâu không?”

“Ông ấy nói ông ấy muốn đi dạo một lúc trước khi quay trở về nhà.”

“Ông ta muốn gì ở ông vậy?” Sebastien hỏi.

“Ông ấy muốn nói chuyện với ta trong rừng về con trai ta như hai người đàn ông với nhau,” Kongo trả lời.

“Lão ta không đáng để cho ông phải phí lời,” Yves nói. Yết hầu của anh giật lên giật xuống nhanh hơn mỗi khi anh bực tức. “Chỉ có giết lão ta mới xí xóa được mọi việc thôi.”

“Chẳng có việc gì trên đời này là công bằng cả,” Kongo đáp. “Nếu thực sự như vậy, thì mạng sống của ông ta và mạng sống của ta đã là như nhau.”

“Lão ta đã nói gì với ông?” Yves hỏi.

“Ông ta hỏi tên con trai của ta,” Kongo nói. “Ông ta muốn làm một cây thánh giá và khắc tên con trai ta lên đó, thật đấy. Ông ta muốn dựng cây thánh giá đó trên mộ con trai ta. Ta nói với ông ta rằng ta không muốn có thêm một cây thánh giá nào đè trên lưng con trai ta nữa.”

“Đáng ra ông nên giết chết lão ta rồi chôn xác lão trong rừng mới phải,” Yves hậm hực.

“Ông ta kể với ta rằng mình đã giết rất nhiều người trong một cuộc chiến tranh thời trẻ,” Kongo kể. “Ông ta không biết mình đã giết bao nhiêu người, nhưng ông ta cảm thấy rằng mỗi người bọn họ vẫn đang giày vò ông ta hàng ngày, dẫm đạp lên hạnh phúc của ông ta. Ông ta nghĩ rằng chính họ, những bóng ma vẫn còn đeo bám ông ta sau khi bị giết, đã làm cho vợ ông ta chết ngay vào cái đêm mà đứa con trai duy nhất của ông ta chào đời, và giết chết con trai ta ngay vào cái ngày mà những đứa cháu của ông ta lần đầu nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Ông ta nghĩ rằng cái chết của cháu trai ông ta đã chứng minh điều đó.”

“Lão ta muốn ông gánh vác nỗi buồn của mình và cả của lão nữa ư?” Yves hỏi, yết hầu của anh nổi cục lên dưới lớp da mỏng.

Kongo đưa tay ra vỗ lên vai Yves để giúp anh hạ hỏa.

“Ta không mong muốn điều gì hơn ở ông ta.” Kongo nắm một vốc hạnh nhân, dùng nắm tay đập vỡ chúng để lọc ra phần thịt quả bên trong.

“Nỗi thống khổ làm cho chúng ta trở nên nhu nhược,” ông nói tiếp, “nhưng bọn ta là đàn ông. Chúng ta đã nói chuyện như hai người đàn ông. Ta kể cho ông ta nghe những nỗi khổ của ta, và ông ta kể cho ta nghe những nỗi khổ của mình. Ta cảm thấy bọn ta đã hiểu thêm một chút về nhau.”

“Đó chỉ là sự tử tế giả tạo mà thôi.” Yves đứng dậy và dậm chân đi lại trước tấm chiếu nơi Joël từng nằm. “Tối nay tôi sẽ đi bán hết đống gỗ trong phòng.”

“Tối nay một chiếc xe tải sẽ vượt biên,” Sebastien thông báo. “Amabelle, Mimi, và tôi đang nghĩ tới chuyện bỏ trốn.”

“Sao cũng được, tôi sẽ ở lại,” Yves cương quyết, đưa tay gãi sồn sột lên cái đầu cạo nhẵn thín. “Tôi sẽ bán chỗ gỗ đó và sẽ ở lại đây. Có rất nhiều người tin rằng những tin đồn đó chỉ nhằm đuổi chúng ta đi khỏi nơi này.”

“Có thể,” Sebastien đáp, “nhưng tôi không muốn ngồi đợi như một con chó trong cũi xem chúng có xảy ra không.”

“Ông định sẽ làm gì?” Yves quay lại hỏi ông già.

“Ta đã sống ở đây ngót mười lăm năm,” Kongo đáp. “Ta đã quá già cho những hành trình như thế này rồi.” Ông cho tay vào nồi và nắm lên một vốc bột ngô. Ông rắc bột lên sàn nhà thành hình một chữ V lớn với hai nhánh choãi rộng như hai cánh tay vươn về phía một bầu trời vô hình.

“Ông của ta hay làm điều này trước mỗi lần ta đi xa,” ông giải thích. “Ông thường nói, ‘Ông làm dấu này cho cháu, vì chúng ta đang từ một chia li thành hai trên hai con đường khác nhau.’ Các cô cậu sẽ phải trèo đèo lội suối trên con đường sắp tới, và các cô cậu cần được phù hộ trên chuyến đi này.”

Gương mặt buồn bã của Sebastien và Yves thoáng nét an lòng, như thể những người cha quá cố của hai anh đã quay về để ban lời phước lành cho họ.

Kongo xoa hai bàn tay vào nhau để phủi sạch bột ngô sau khi ban phước. Ngẩng đầu lên, ông nháy mắt với chúng tôi. “Thánh Christophe 1 sẽ ở bên các con,” ông nói.

1 Vị thánh Công giáo bảo hộ cho những người du hành khỏi hiểm nguy.

Yves đứng lên và đi ra khỏi phòng của Kongo. Một vài phút sau, tôi nhìn ra ngoài và thấy anh đang vác hai phiến gỗ của Papi trên lưng và đi về phía con đường cái trong đêm đen.

“Cậu nên đợi ngày mai hẵng bán!” Sebastien vừa chạy theo bạn vừa kêu to.

“Ngày mai có khi cậu chẳng còn ở đây nữa rồi!” Yves kêu lên đáp lời. “Khi cả hai ta về lại quê hương, cậu và tôi sẽ ăn một bữa ra trò với nhau, tất nhiên là không quá nhiều đến mức ngã quỵ mà chết.”

Tôi cúi xuống và hôn từ biệt lên trán Kongo. Mắt ông vẫn nhìn đăm đăm xuống hình vẽ bằng bột ngô ở trên sàn.

Trên đường về, tôi bị ám ảnh bởi suy nghĩ rằng sau khi tôi dời đi, có lẽ tôi sẽ không biết lúc nào thì Kongo chết.

Trong đêm tối, Sebastien ôm lấy khuôn mặt tôi và hôn lên môi tôi.

“Anh đã quá mệt mỏi với những vụ thu hoạch và những ruộng mía rồi,” anh nói. “Có lẽ đã đến lúc anh phải về nhà gặp mẹ. Mẹ anh không hề tưởng tượng rằng bọn anh sẽ đi lâu như vậy. Anh sẽ đi tìm Mimi và bọn anh sẽ gặp em ở nhà thờ tối nay.” Khi tôi về tới nhà Señora Valencia, Papi vẫn chưa quay trở lại. Bác Luis vẫn đang đi tìm ông ấy. Sau khi nấu xong bữa tối, bác Juana đã phụ chồng trong cuộc tìm kiếm Papi. Lidia ở trong phòng với Rosalinda trong khi Señora Valencia ngồi ngoài hàng hiên nhìn ra con đường trước nhà.

Tôi muốn nói với señora những gì Kongo đã kể với tôi để chị có thể đi vào nhà và tránh hơi lạnh ban đêm, rằng cha chị vẫn ổn, chí ít là cho tới chiều nay. Nhưng tôi không muốn tiết lộ những điều mà Papi có thể muốn giữ bí mật. Tôi cũng không muốn lỡ mồm nói ra kế hoạch rời bỏ ngôi nhà của chị, có thể là mãi mãi. Cuộc nói chuyện đó có thể bắt đầu và kết thúc ở đâu chứ? Trong tình cảnh hiện tại, nó đã trở thành câu chuyện giữa hai đất nước, hai dân tộc khác nhau đang cố gắng chia sẻ một mảnh đất bé nhỏ. Có lẽ đây là lý do tôi chưa bao giờ để tâm đến những lời đồn đại trước kia. Cho dù chúng là sự thật, thì chúng là những thứ nằm ngoài khả năng kiểm soát hay thay đổi của tôi.

Tôi đã quyết định rằng tôi sẽ không nói lời từ biệt với señora khi đến lúc phải ra đi. Nhưng tôi sẽ nhờ bác sĩ Javier gửi lời tới chị sau khi tôi đã an toàn ở bên kia biên giới.

Trong lúc señora chờ đợi cha mình trở về nhà, Beatriz đi lên đồi từ phía nhà mẹ cô. Cô ngồi xuống một trong những cái ghế đẩy trước hiên, bên cạnh Señora Valencia. Señora Valencia đứng dậy và tựa lưng vào cột nhà, mắt vẫn tiếp tục nhìn ra đường cái.

“Anh trai cô đâu rồi?” Chị hỏi Beatriz. “Có khi cha tôi đang ở cùng ông ấy.”

“Javier đang ở nhà sửa soạn để đi ra biên giới,” Beatriz đáp. “Cha chị không ở cùng anh ấy đâu.”

“Tôi muốn biết điều gì ở biên giới đã lôi cuốn Javier,” Señora Valencia nói tiếp. “Có khi đó cũng là lý do khiến chồng tôi tiếp tục quay trở lại nơi đó.”

“Pico và anh trai tôi không phải là những người duy nhất đi về biên giới. Mimi đã rời khỏi nhà chúng tôi hôm nay,” tôi nghe Beatriz nói. “Anh trai cô ta đã đến mang cô ta đi.”

Tôi đi ra ngoài hiên và hỏi xem họ có muốn dùng món giải khát gì không. Đây là cử chỉ ân cần cuối cùng của tôi với Señora Valencia. Chị muốn tôi mang cho chị một ly nước mát.

“Amabelle, cô có biết rằng Mimi đã rời bỏ nơi này không?” Beatriz hỏi tôi.

Tôi giả vờ tỏ ra ngạc nhiên hết mức có thể. “¡Qué lástima!” Thật đáng tiếc!

“Cha chị chưa bao giờ ra khỏi nhà lâu thế này,” Señora Valencia nói trong khi tôi rót nước cho chị.

“Chị đang lo sợ cho cha chị vì chị chỉ nghĩ đến những chuyện tệ hại có thể xảy ra mà thôi,” Beatriz nói với giọng bình thản thường ngày. “Có khi nào ông ấy có nhân tình cũng nên.”

“Tại sao ông ấy phải giấu diếm nếu ông ấy đang cặp kè với một người đàn bà khác chứ?” Señora Valencia ngồi xuống trên chiếc ghế đẩy. “Dù gì mẹ tôi cũng đã mất lâu rồi mà.”

“Có thể mối quan hệ với cô nhân tình đó sẽ dấy lên điều tiếng. Cô ta có thể quá trẻ hoặc đã có chồng rồi.”

“Bản tính của Papi không phải người như vậy,” Señora Valencia quả quyết.

“Dies diem docet,” Beatriz trả lời, phô trương khả năng tiếng La tinh của mình.

“Cô vừa nói gì thế?” Señora Valencia hỏi lại. “Câu đó nghĩa là gì vậy?”

“Sự học của một người đàn ông không bao giờ chấm dứt,” Beatriz cắt nghĩa.

Señora Valencia kêu tôi rót thêm một ly nước nữa. Khi tôi đưa ly cho chị, chị uống ừng ực liền một mạch.

“Có thể cha tôi đã bị bắt giam.” Chị đánh mắt nhìn khắp khoảng sân như để tìm những khuôn mặt không quen trong lúc đưa lại ly nước cho tôi. “Có thể ông ấy đã nói điều gì đó thất thố với những người ông ấy không nên dính vào.”

“Chúng ta không nên suy nghĩ theo hướng đó vào lúc này,” Beatriz đáp lời, giọng nói của cô đủ bình tĩnh để trấn an señora. “Hãy nghĩ tới những điều vui tươi hơn trong lúc chờ cha chị quay trở về. Nói tôi nghe nào, sau bức chân dung của El Jefe ở trong kia, chị định sẽ vẽ tiếp những gì?”

Señora mất một lúc lâu để lái những suy nghĩ trong đầu từ cha chị sang chuyện vẽ tranh.

“Chị có chủ đề nào khác muốn vẽ trong đầu chưa?” Beatriz tiếp tục hỏi.

“Con trai tôi. Tôi muốn vẽ nó,” Señora Valencia đáp. “Còn cô?” Chị hỏi, lái cuộc trò chuyện của họ qua một hướng khác. “Tình hình cô ra sao? Tôi nghe đồn dạo này cô từ chối các chàng trai như đuổi ruồi vo ve quanh bát súp.”

“Chẳng phải chị đã lấy mất Pico từ tay tôi sao?” Beatriz bật cười và đáp. “Trần đời tôi chưa từng gặp ai như anh ấy. Giờ thì tôi chỉ đang đợi nửa còn lại của mình đến mà thôi. Có lẽ anh ấy sẽ mở lời với tôi bằng tiếng La tinh, và có thể tôi sẽ không hoàn toàn hiểu được những gì anh ấy nói. Đây là một giấc mơ của tôi, rằng người đàn ông dành cho tôi sẽ nói những lời đầu tiên với tôi bằng ngôn ngữ La tinh.”

“Chị thực sự nghĩ rằng tôi đã giành Pico từ tay chị ư?” Señora hỏi. “Pico có một nét tính cách mà tôi không bao giờ ưa nổi,” Beatriz thú nhận. “Anh ta luôn mơ một ngày sẽ trở thành tổng thống của đất nước này, và theo như tôi thấy thì anh ta sẽ chấp nhận dời non lấp biển để đạt được mục đích đó.”

“Anh ấy là một người tốt,” Señora Valencia sử dụng lời biện hộ chị vẫn thường dùng cho chồng mình.

“Thời buổi này có rất nhiều người tốt vẫn làm những chuyện kinh khủng,” Beatriz đáp lại.

“Vậy là cô muốn kết hôn với một linh mục, người sẽ mở lời với cô bằng tiếng La tinh?” Señora Valencia hỏi, hướng câu chuyện quay trở lại chủ đề ban đầu.

“Theo lời mẹ tôi, một cô tiểu thư nói tiếng La tinh sẽ chẳng bao giờ tìm được một tấm chồng,” Beatriz trả lời. “Mẹ tôi lấy chồng khi bà còn trẻ hơn cả tôi bây giờ. Và giờ thì nhìn bà ấy xem, bà ấy cuối cùng vẫn là một góa phụ côi cút đó thôi.”

“Vậy là cô sợ sẽ phải sống cô đơn hơn cả lúc này sao?” Señora hỏi. “Không phải là tôi sợ,” Beatriz trả lời. “Tôi muốn chu du thật xa và trốn thoát khỏi nơi này.”

“Cô sẽ đi đâu, tới thủ đô ư?”

“Tôi chưa biết nữa. Có thể là xa hơn. Ở Alegría này, đám con gái chỉ biết mơ tới việc đi học trường nữ công gia chánh ở Cuidad Trujillo. Tôi muốn đến một nơi khác, Tây Ban Nha chẳng hạn. Có lẽ nơi đó tôi có nhiều lựa chọn hơn.”

“Tôi không nghĩ rằng tôi sẽ rời bỏ nơi này.” Señora Valencia nói. “Đây là nơi mẹ tôi và con trai tôi yên nghỉ. Có lẽ rồi đến cha tôi cũng sẽ nằm xuống ở đây. Tôi sẽ không bao giờ rời bỏ mảnh đất này.”

“Sớm muộn rồi người ta sẽ tìm đến những nơi như Alegría chỉ để nghỉ dưỡng và tận hưởng sự thanh bình nơi đây,” Beatriz nhận xét.

“Tôi nghĩ họ sẽ tới vì nguồn lợi từ cây mía.” Señora Valencia đẩy ghế về phía trước và ôm lấy cây cột đỡ mái hiên bằng cả hai tay. “Từ khi tôi còn là một đứa bé, những thân mía đã mọc ở đây rồi. Những nhà máy đường đang ngày càng to hơn và có nhiều người phu cắt mía ở lại đây hơn sau những mùa thu hoạch. Đây sẽ là tương lai của chúng ta.”

Vẫn còn thời gian trước khi buổi lễ cầu nguyện bắt đầu. Tôi nghe tiếng ầm ầm của động cơ xe và tức tốc chạy về phía đỉnh đồi. Một chiếc xe tải đang trờ tới. Señora Valencia và Beatriz đứng dậy để đi xuống con dốc dẫn tới đường cái. Beatriz giơ một ngọn đèn lên để soi đường.

Khi họ tới được đường cái thì chiếc xe tải đã phóng qua và biến mất. Cả hai đang chen chúc đi trên khoảng đất chật hẹp giữa những hào thông nước và cửa trước nhà bác Juana và bác Luis khi một toán xe tải quân đội khác chạy vụt qua mà không dừng lại.

Phải mất một lúc thì đám bụi khô khốc trong không khí mới lắng xuống. Con đường bây giờ vắng tanh, ngoại trừ một vài con dê đang chạy nhảy lấy lại đà sau chấn động.

Hít thở trong đám bụi đó là quá sức đối với Señora Valencia, tôi nghĩ. Chị thở dốc nặng nề như thể đang bị cả một bọc toàn đá đè lên mặt. Beatriz chạy vào trong nhà bác Juana và mang ra một bình nước bằng đất nung. Cô rót một ít nước vào lòng bàn tay và dấp nước lên mặt señora.

Beatriz và tôi đỡ hai bên señora và dìu chị quay trở lên đỉnh đồi trong lúc một vài chiếc xe tải quân đội khác lao vọt qua, tất cả đều nhắm về hướng biên giới. Những chiếc xe tải làm cho tôi cảm thấy bất an. Nhưng tôi còn thấy bất an hơn khi phát hiện những vệt máu to bằng mặt người sau váy của señora. Chúng càng lúc càng loang rộng trong khi chúng tôi dìu chị về phòng ngủ. Mặc dù vậy, tôi vẫn tự nhủ rằng mình sẽ chỉ giúp señora lên giường nằm nghỉ, sau đó sẽ nhanh chóng đi tới nhà thờ.

“Amabelle, xin em hãy ở lại với chị.” Señora Valencia nắm chặt lấy cổ tay tôi trong lúc chúng tôi đỡ chị nằm xuống. Chị siết cổ tay tôi chặt như lúc chị đang lâm bồn.

“Amabelle biết cách chăm sóc cho tôi,” chị nói với Beatriz. “Chị đã không dành thời gian nghỉ ngơi đầy đủ sau khi sinh, đúng không Amabelle?”

“Señora, làm ơn thả tay em ra để em có thể đi lấy thuốc cho chị,” tôi khẩn khoản.

Cổ tay tôi vẫn còn đau sau khi chị thả tôi ra. Mắt chị dõi theo tôi cho đến tận ngoài cửa. Có lẽ chị biết rằng tôi sẽ không quay trở lại nữa.

Tôi đi thẳng xuống bếp, định bụng sẽ trốn ra ngoài bằng đường cửa sau. Lidia đang chuẩn bị trà cho cô em họ vừa lúc Papi đi vào nhà với bác Juana.

Papi kéo lê một cây thánh giá làm bằng gỗ tuyết tùng mới cưa trên nền đất đỏ của nhà bếp. Trên cây thập giá khắc cái tên Señor Joël Raymond Lorrier bằng những chữ cái nhỏ nguệch ngoạc.

“Amabelle, mang ly trà này lên cho señora,” Lidia nói, “trong lúc tôi chuẩn bị túi chườm cho chị ấy.”

“Có chuyện gì đã xảy ra với Valencia sao?” Papi hỏi, giọng hoảng hốt.

“Chị ấy bị ngộp vì hít phải bụi từ đường cái,” tôi giải thích. Không cần phải nói với ông về việc chị bị chảy máu. Chị ấy sẽ tự nói nếu chị ấy muốn.

“Con bé làm gì ở ngoài đường cái vậy?” Papi hỏi. “Chị ấy đi tìm bác đó,” Lidia đáp.

Tôi đưa ly trà cho Papi để ông mang cho con gái, bởi đằng nào ông cũng đang đi lên phòng chị.

“Bác tìm thấy Papi ở đâu vậy?” Tôi hỏi bác Juana.

“ Trên đường với một cây thập tự trên lưng ông ấy,” bác Juana đáp.

Những tiếng động cơ gầm rú hòa lẫn với tiếng kêu la hò hét vọng vào từ bên ngoài. Một trong những tiếng hét đó là của Señor Pico.

Tất cả chúng tôi – bác Juana, tôi, Papi, rồi đến Beatriz, người vừa mới đi ra từ phòng của señora – ùa ra ngoài xem chuyện gì đang xảy ra. Hai chiếc xe tải quân đội đang nằm bắt chéo, án ngữ ở ngay giữa con đường. Đèn pha phía trước của chúng bật sáng, soi rọi một đoạn đường dài từ nhà của bác Juana và bác Luis xuống tận cổng nhà Doña Sabine.

Quân lính đang dàn thành một bức tường chặn đứng hàng ngũ những người đàn ông trong đội tuần tra của Unèl. Trong tay Unèl và những người bạn của anh lăm lăm những thanh mã tấu. Señor Pico đứng trên tai trước của chiếc xe tải đầu tiên và quan sát cuộc đối đầu.

Một vài người phu cắt mía đã bị tống vào thùng xe của chiếc xe tải còn lại, canh gác bởi một đám lính trẻ. Họ đứng túm tụm với nhau, bám lấy nhau để giữ thăng bằng. Tôi nhận ra một vài khuôn mặt quen thuộc của những người làm việc ở các thị trấn lân cận, những người đàn ông đàn bà mà tôi đã gặp một hai lần khi họ tới đây thăm bạn bè, dự lễ Giáng sinh, hay ăn mừng ngày Quốc khánh của Haiti và Ngày tưởng niệm những vị anh hùng độc lập vào ngày thứ nhất và thứ hai mỗi năm.

Beatriz, bác Juana, và tôi tiến gần đến cây phượng, nơi chúng tôi có thể nhìn xuống con đường cái rõ hơn. Tôi cảm thấy hơi thở đầy lo sợ của bác Juana phả lên gáy mình. Bác lẩm nhẩm cầu nguyện Đức mẹ Maria và những vị thánh khác mà tôi chưa từng nghe bác gọi tên bao giờ.

“Quỳ xuống hoặc ngồi xuống!” Señor Pico thét lớn về phía nhóm của Unèl. “Hạ mã tấu của các người xuống. Chúng ta sẽ áp giải các người lên xe và đưa các người tới biên giới.”

Một vài tên lính nữa nhảy xuống từ xe tải của Señor Pico và đứng bên cạnh anh ở hàng đầu. Bác Luis đi ra từ đằng sau khu nhà vệ sinh và đến đứng gần cây phượng.

Chúng tôi di chuyển gần hơn về đường cái, đứng trên một mô đất ở phần thấp nhất của quả đồi. Bây giờ chúng tôi đang ở ngay đằng sau chiếc xe tải gần nơi Señor Pico đang đứng. Anh quay lưng về phía ngôi nhà nên không nhìn thấy chúng tôi.

“Quỳ xuống hoặc ngồi xuống!” Señor Pico lặp lại mệnh lệnh. “Hạ mã tấu của các người xuống. Chúng ta sẽ áp giải các người lên xe và đưa các người tới biên giới.”

Unèl ra hiệu cho nhóm của anh đứng yên. Không ai chịu quỳ hay ngồi xuống. Trái lại, họ tiến thêm những bước nhỏ về phía mũi xe nơi Señor Pico đang đứng chỉ đạo.

“Bọn ta sẽ không đời nào quỳ xuống!” Unèl hét lớn.

“Công việc của các người trên những cánh đồng mía còn khổ sở hơn việc quỳ nhiều!” Señor Pico hét trả. “Các người làm việc quần quật như súc vật, đến mức không biết đứng là gì. Bỏ mã tấu xuống. Ta đã hết mía để cho các người cắt rồi.”

Những người đàn ông chửi rủa mẹ của Señor Pico là con điếm mạt hạng nhất được sinh ra trong một động đĩ, rằng bà anh và mẹ đỡ đầu của anh đã bị nguyền rủa phải sống kiếp bán trôn nuôi miệng. Ngày anh sinh ra trên đời là ngày của quỷ. Rất nhiều người trong đám Unèl cầu mong anh sẽ gặp một cái chết đau đớn và thê thảm trong nhục hình. Họ thề độc rằng một ngày nào đó anh sẽ mắc nghẹn bởi chính những lời nói của mình hôm nay, phải nhai chúng, nôn chúng ra, rồi phải nhai lại chúng lần nữa.

Đám binh lính cười chế nhạo những lời nguyền rủa đó. Xung quanh ngọn đồi, tất cả các ngôi nhà đã lên đèn và mọi người đang đổ xô ra ngoài, cố gắng nghe ngóng hay quan sát xem chuyện gì đang xảy ra.

Señor Pico nhìn xuống nhóm Unèl trong lúc anh cân nhắc xem phải giải quyết họ thế nào. Đột ngột, mẹ của bác sĩ Javier và Beatrix, Doña Eva, đâm xuyên qua đám đông, gạt đám quân lính ra để rẽ đường đi về phía chiếc xe tải của Señor Pico.

“Tôi có thể nói chuyện với cậu bây giờ được không, Señor?” Bà kêu tên Señor Pico.

Anh cúi xuống và nói với bà, “Doña Eva, xin bà hãy bình tĩnh và đợi một lát.”

“Tôi phải nói chuyện với cậu ngay bây giờ,” bà cương quyết. “Nó liên quan đến con trai tôi, Javier.”

“Doña Eva, xin bà làm ơn vào đợi ở trong nhà.” Beatriz đứng dậy và lên tiếng gọi mẹ.

“Anh trai của con đã bị bắt giữ,” Doña Eva thông báo cho Beatriz ngay khi bà tới chỗ chúng tôi. Bà thở không ra hơi, và toàn thân bà run lên bần bật. “Javier đã bị bắt ở nhà thờ, cùng với Cha Romain và Cha Vargas. Có người chạy đến báo tin cho mẹ, nhưng lúc mẹ tới nơi thì đám lính đã giải họ đi rồi. Mẹ muốn báo chuyện này với Pico. Có thể anh ấy sẽ nể ơn nghĩa của Javier với mình mà ra tay giúp đỡ chúng ta.”

Nếu bác sĩ Javier bị bắt, thì điều gì đã xảy ra với Sebastien, Mimi, và tất cả những người khác đang chuẩn bị trốn đi cùng ông ấy?

“Tôi không thể hiểu nổi,” bác Juana thì thầm. “Trước mắt tất cả các vị thánh hiển linh, đất nước của chúng ta đang rơi vào tay của những kẻ loạn trí.”

Doña Eva quàng một chiếc khăn hoa mỏng quanh lưng. Bà xiết nó sát gần ngực mình hơn. Beatriz đưa bà quay trở lại nhà trên ngọn đồi. Señor Pico quay lưng nhìn theo bóng họ leo lên đỉnh đồi. Anh nhìn thấy bác Juana, bác Luis, và tôi ở dưới chân đồi.

“Chúng ta sẽ đưa các người tới biên giới ngay bây giờ,” anh quay lại nhìn nhóm người đang đứng trên đường và ra lệnh.

Họ đồng thanh hô vang, “¡Nunca!” Không bao giờ!

Unèl vỗ hai tay vào nhau, củng cố tinh thần cho những người còn lại.

Señor Pico phất tay ra hiệu cho quân lính đang án ngữ trên con đường. Chiếc xe tải giam giữ những người phu làm việc trong nhà máy của Don Carlos lừ lừ tiến về phía trước. Một người trong nhóm Unèl chạy về phía chiếc xe và vấp ngã ngay trước mũi xe. Bánh xe trước nghiến qua chân anh ta. Khuôn mặt anh ta méo xẹo trong cơn đau từ nhịp lên xuống tưởng chừng như kéo dài vô tận của mỗi bánh xe.

Hai người khác trong nhóm Unèl chạy tới để giúp anh ta, nhưng bỏ chạy tán loạn khi chiếc xe tải lao về phía họ. Người đàn ông bị thương ngã vật ra, lăn lộn trên mặt đất. Khuôn mặt anh ta đóng băng trong cơn đau và sự khiếp sợ. Anh ta cố gắng kéo lê chân mình đi trước khi các bánh xe sau có thể nghiến lên chúng.

Tôi chạy về phía anh ta, va phải những người đồng hương của mình đang trong cơn hoảng loạn tháo chạy. Chiếc xe tải dừng lại trước khi bánh sau của nó kịp đè nát người đàn ông nằm dưới đất. Một toán lính quây lại, bắt lấy người đàn ông, và quẳng anh vào thùng xe.

Từ sàn xe tới mặt đất chỉ là một khoảng cách khá thấp. Người đàn ông với cái chân gãy quyết định mạo hiểm nhảy xuống. Anh ta ngã xuống với hai bàn tay chống trên mặt đất, rồi lập tức bò vào trong bụi rậm bên lề đường cho tới khi những đám cỏ cao nuốt chửng anh ta.

Những tên lính có lẽ đã nhận lệnh không được dùng súng trường, bằng không chúng đã có thể bắn chết những người tìm cách bỏ trốn. Thay vào đó, chúng túm lấy những người đang ở trước mặt. Hai ba tên quây vòng quanh một người, túm lấy tay chân kẻ xấu số, rồi lẳng anh ta vào đằng sau chiếc xe tải.

Tôi nghe thấy tiếng Señor Pico quát gọi tên tôi. “Amabelle, đi ra khỏi đường cái ngay!” Anh hét lớn, như thể sự có mặt của tôi ở đó là một hành động bất kính với anh và ngôi nhà của anh.

Tôi vừa luồn lách vừa tránh né để vượt qua những bộ đồng phục ka-ki. Những tên lính đang dùng roi da, cành cây, và gậy gộc quất túi bụi và những người đang tháo chạy. Một lưỡi roi da bò quất ngang lưng tôi. Cơn đau làm hông tôi tê rát trong lúc tôi chui vào bụi chuối rậm rạp đằng sau nhà bác Juana và bác Luis.

Tìm thấy bọc đồ giấu sẵn ở đó, tôi hé mắt nhìn qua kẽ lá chuối. Bác Juana và bác Luis đã không còn ở chỗ cũ gần gốc phượng.

Tôi dò dẫm đi ra gần bụi rậm, cố gắng vừa bám sát con đường cái vừa không để ai nhìn thấy mình. Unèl là một trong ba người đàn ông sót lại vẫn đang tiếp tục chiến đấu. Những người khác hoặc đã bị bắt giữ ở trong xe tải với những họng súng trường chĩa vào mặt hoặc đã bỏ chạy.

Unèl vung cây mã tấu về phía một trong những tên lính trẻ và để lại một vết cắt lẹm trên má hắn. Khi một toán lính ùa tới tìm cách bắt anh, Unèl uốn người và lách qua bọn chúng, miệng không ngừng kêu thét rằng cả đời anh chưa từng bao giờ sống mà phải quỳ trước mặt kẻ khác. Tất cả bọn lính đang đuổi theo anh, ngoại trừ Señor Pico vẫn đang đứng trên tai chiếc xe tải và quan sát.

Unèl lúc này đã bị bao vây bởi một vòng tròn quân lính. Ba tên giữ tay phải anh. Những tên còn lại giữ tay trái rồi khóa hai tay anh lại phía sau lưng. Một trong những tên sốt sắng hơn đã dùng lưỡi lê trên khẩu súng trường xiên vào tay Unèl, để lại một vết rạch từ cổ tay lên cùi chỏ. Señor Pico nhảy xuống từ trên tai xe và nhìn Unèl bị trói lại bằng một sợi dây buộc gia súc và áp tải về phía sau xe. Unèl giãy giụa cật lực, cố gắng vùng ra khỏi bàn tay của những tên lính. Cuối cùng, anh và hai người còn lại bị tống vào sau thùng xe. Cửa sau xe đóng chặt lại và nhốt họ ở bên trong.

Señor Pico cho triệu tập một vài tên trong đám lính. Sau vài phút kiểm tra xung quanh đường cái, anh và một tá quân đi bộ lên ngọn đồi về phía nhà mình, trong khi đám còn lại lái xe đi cùng với những tù binh vừa bắt được. Với anh ta, dường như mọi việc vừa xảy ra chỉ là công việc ngày thường. Anh ta đã làm xong nhiệm vụ và bây giờ là lúc dành cho việc khác.

Khi anh ta đã đi khuất tầm mắt, tôi men theo con suối để đi tới nhà máy của Don Carlos. Có thể Sebastien vẫn chưa đi tới nhà thờ. Có thể anh ấy vẫn đang đợi cùng với Mimi ở khu nhà máy.

Vừa đặt chân vào khu nhà máy, tôi trông thấy hai tên lính đang uống rượu ở quầy của Mercedes. Tôi lẩn ra khỏi tầm mắt của chúng trong khi chúng khoe khoang với Mercedes và hai đứa con trai về những gì đã xảy ra ở nhà thờ, rằng đám bạn lính của chúng đã bắt giữ hai kẻ phản đồ – Cha Romain và Cha Vargas – cùng một đám nông dân, và rằng hai vị thầy tu đã khẩn nài được đi cùng tới pháo đài với những con chiên đã bị bắt giữ bên ngoài nhà thờ của họ.

“Các anh biết tôi kính phục Generalissimo như thế nào,” Mercedes phát biểu, giọng bà ta lè nhè hơi rượu mạnh. “Thế nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta xứng đáng bị trừng phạt nếu như chúng ta dám bắt giữ các cha xứ ngay tại nhà thờ của họ.”

“Đáng ra bà nên ở đó để chứng kiến cảnh đó,” một trong những tên lính vặc lại. “Hai tên cha xứ đó khóc lóc như những con mẹ mới để tang chồng vậy.” Bên trong nhà thờ vắng tanh, chỉ còn lại một bức tượng Chúa Ki-tô bằng gỗ đóng đinh trên cây thập giá đang nhìn xuống những băng ghế lặng yên. Tôi kiểm tra bên dưới tất cả các băng ghế, hy vọng sẽ tìm thấy một người nào đó đang trốn trong bóng tối có thể kể cho tôi nghe về những gì đã xảy ra trong nhà thờ. Theo những gì tôi quan sát được, mọi thứ vẫn ở nguyên chỗ cũ của nó, không hề bị dịch chuyển hay hất đổ. Nó cứ như thể là chưa có ai đi vào bên trong nhà thờ hôm nay, buổi lễ vẫn chưa bắt đầu, và mọi người vẫn chưa tụ tập.

Trong sân nhà thờ, tôi nghe văng vẳng những tiếng động chỉ vang lên trong đêm tối – tiếng ve sầu, tiếng ếch cây, và tiếng dơi kêu. Cánh cổng vào trường học vẫn đang khóa. Không có ánh sáng nào vọng ra từ sau cánh cửa ngôi nhà nơi Cha Romain, Cha Vargas, và một vài học sinh mồ côi sinh sống.

Rời khỏi nhà thờ, tôi tránh đi ra đường cái và chọn băng qua một bụi rậm đầy dương xỉ, cây hồng xiêm, và cây đu đủ dại để đi tới một hào dẫn nước bao quanh một thửa ruộng trồng mía non của Don Carlos.

Tôi ngồi đợi ở đó một lúc lâu, hy vọng rằng khi tôi đến được khu nhà máy thì những tên lính đã rời khỏi đó. Khi tôi bắt đầu lần mò vào trong ruộng mía, màn đêm đen kịt đã bao phủ không gian xung quanh. Bóng tối dày đặc như thể bạn đang nằm bên trong một cỗ quan tài chôn sâu dưới sáu tấc đất.

Trong bóng tối đó, những ý niệm về ánh sáng hoàn toàn không tồn tại, cứ như thể ánh trăng sáng lơ lửng trên đầu không dám bén mảng tới gần những tầng tầng lớp lớp lá mía, đan xen chồng chéo lên nhau như tôn lợp mái nhà.

Tiếng dế kêu và tiếng châu chấu vang lên rả rích trong những bụi mía. Tôi bước từng bước nhỏ, giữ chặt bọc đồ trên ngực. Tôi không muốn tạo ra quá nhiều tiếng động trong lúc nhón chân đi qua những thân mía vì có thể phía bên kia bờ ruộng có những tên lính đang chờ sẵn. Tôi cũng không muốn những bước chân của mình đánh động bất cứ con vật nào đang ẩn náu dưới lớp bùn đất hay gặm nhấm quanh rễ mía: thỏ, chuột, hay những con rắn vườn mà Sebastien và những người khác luôn phải chạm trán trong lúc làm việc.

Một mùi tanh hôi nồng nặc bốc lên từ mặt đất. Lớp sình lầy dưới gốc mía lún xuống dưới mỗi bước chân tôi. Những đọt mía ngắn hơn cắt vào chân tôi trong khi những thân mía cao hơn liên tục quất vào mặt tôi đến mức tôi phải đưa tay che mặt. Một tổ kiến đã tìm được đường bò lên đùi tôi. Tôi càng cố gắng đập chúng thì chúng càng bò nhanh lên trên lưng tôi.

Thấp thoáng đằng xa trong những ngôi nhà đóng tạm bợ trong khu nhà máy tỏa ra những quầng sáng mờ. Quầy rượu của Mercedes đã đóng cửa và những tên lính đã ra về. Nhà của những người phu cắt mía đều sáng đèn, nhưng không có một ai ngồi bên ngoài. Tôi phủi những con kiến bám trên tay trong lúc rảo bước về phía cửa nhà Kongo.

“Kongo, cháu là Amabelle đến gặp ông đây,” tôi thì thầm nói. Một vài người ló đầu nhìn ra khỏi nhà của họ khi tôi đi vào trong nhà của Kongo. Chân tôi rướm máu và hai cánh tay tôi bám đầy kiến lửa. Kongo soi ngọn đèn lên gần tay tôi và phủi hết những con kiến đi. Tôi cảm giác có một dòng máu đang rỉ ra giữa hai lông mày.

“Họ có bắt được cô không?” Ông vừa hỏi vừa lấy khăn tay lau những vết máu dính trên mặt tôi.

“Cháu đã lẩn trốn qua các ruộng mía,” tôi đáp.

Ông chỉ về phía chiếc chiếu của Joël và bảo tôi ngồi xuống. “Sebastien đã đi cùng Mimi tới nhà thờ,” ông nói. “Hai đứa nó đã tới đó để gặp cô. Những người khác nói với ta rằng xe tải quân đội đã tới và bắt chúng đi.”

“Có thật như thế không hả ông?” Tôi vẫn chưa sẵn sàng để tin vào tai mình.

Ông mở nắp một chiếc nồi đặt ở giữa phòng và lấy từ trong đó ra một trái chanh. Ông bổ đôi quả chanh và ép hai nửa vào hai bên sống mũi tôi.

“Chúng sẽ giúp cô cầm máu.” Ông đưa hai miếng chanh cho tôi để xoa lên những vết cắt trên chân. Tôi cắn răng lại và bắt đầu xoa.

“Họ có thể bị đưa đi đâu?” Tôi hỏi.

“Nếu bọn chúng không giết họ ngay tại đó, chúng sẽ mang họ tới nhà tù ở biên giới gần Dajabón.” Ông nói với một giọng xa xôi thoát tục, như thể cái chết không còn có ý nghĩa gì với ông nữa. “Trước đó, chúng vẫn thường đưa bọn ta đến nhà tù gần Dajabón, rồi áp tải bọn ta đến cây cầu bắc ngang biên giới và thả bọn ta đi. Ta không biết rằng chúng có để họ đi lần này không. Yves giờ đang ở nhà của Doña Sabine. Bọn chúng không bắt cậu ta đi. Cậu ta là người đến báo tin cho ta về Sebastien và em gái cậu ấy. Cậu ta muốn ta cùng đến lánh nạn ở nhà Doña Sabine. Ta bảo rằng ta sẽ ở lại đây, và nếu cần, ta sẽ chết ở đây.”

Một vài con kiến vẫn đang bò trên da đầu tôi, lẩn trốn trong những lọn tóc ngắn. Để đuổi chúng ra, tôi điên cuồng gãi đầu đến độ các đầu móng tay tôi dính máu khi tôi gỡ được chúng ra khỏi tóc mình.

“Vậy thì cháu sẽ đi đến Dajabón,” tôi đáp.

“Cô chắc chắn rằng cô không muốn ở lại đây chứ?” Kongo hỏi. “Chúng ta sẽ an toàn hơn nếu ở lại trong khu nhà máy.”

“Cháu muốn đi tới biên giới,” tôi nhắc lại. “Cô có biết đường đi tới đó không?”

“Cháu nghe nói rằng có thể đi đường núi để tới đó.”

“Cô hãy đi ngược dòng con suối về phía những ngọn núi. Cô có thể ngủ qua đêm trong các hang động trên đường đi. Đây là con đường mà trước đây ta đã nhiều lần đi qua để đến thung lũng này. Khi xuống núi, cô đã biết băng qua sông ở chỗ nào chưa? Ở một số đoạn, mực nước sông rất nông. Vào mùa này trong năm, chỗ nông nhất là ở gần cây cầu.”

“Cháu sẽ ghi nhớ những điều này,” tôi cảm ơn ông.

“Bọn quân lính có thể đang ở trên núi,” ông căn dặn. “Ta nghe từ một người phu ở trong nhà máy rằng bọn chúng đang đốt nhà của những người Haiti sinh sống trong những ngôi làng trên núi.”

“Trước khi đi, cháu cần phải nói chuyện với Yves,” tôi nói.

Ông nhìn xuống bọc đồ của tôi và thấy đường hằn của chiếc mặt nạ hình con trai ông trong đó. “Đừng đi theo đường qua ruộng mía nữa. Ta sẽ chỉ cho cô một lối đi khác.”

Chúng tôi nhón bước đi ra ngoài và quẹo ở góc quanh để đi qua vườn khoai mỡ của Sebastien. Tôi đứng lại đó trong giây lát và nghĩ về niềm vui của Sebastien khi anh được trồng và nuôi dưỡng những thứ cho bản thân mình sau một ngày lao động trên ruộng mía cho người khác. Tôi chui qua một hàng rào gỗ nằm kế một con đường nhỏ dẫn tới cánh cổng bên hông nhà Doña Sabine. Kongo quay trở lại con đường bí mật dẫn về nhà máy mà không nói thêm điều gì nữa.

Tôi đợi cho đến lúc ông quay trở về nhà máy rồi đi tới cổng trước nhà Doña Sabine. Tôi phải dùng một hòn đá đập cửa trước khi có người nghe thấy tiếng tôi. Mặc dù lo lắng rằng tiếng đập cửa của tôi có thể đánh động những tên lính đâu đó phía xa trên con đường cái, tôi không còn lựa chọn nào khác.

Félice hé mắt nhìn qua khe sắt trên cánh cửa, rồi mở vội cánh cửa sắt và kéo tôi vào trong. Không có một người bảo vệ nào đứng gác ở cửa.

“Mặt cô làm sao vậy?” Cô hỏi, vết bớt phập phồng với mỗi cử động của khuôn miệng.

“Chỉ là một vài vết xước thôi.” Tôi đưa tay sờ sống mũi. “Những người bảo vệ đi đâu hết rồi?”

“Don Gilbert và Doña Sabine đã đuổi họ đi rồi,” cô trả lời. “Họ sợ rằng những người bảo vệ sẽ trở mặt và phản bội họ. Doña Sabine đã đưa những người họ hàng của bà ấy cùng những người khác trong nhà trở về Haiti ngày hôm qua.”

Félice chỉ tay về phía bậc thềm trước ngôi nhà chính, nơi những người đàn ông đàn bà đang rướn cổ nhìn ngó xem chuyện gì đang xảy ra ở gần cổng. Một bà già và một cậu trai trẻ, có vẻ là hai mẹ con, bước lại gần chúng tôi.

“Tôi nghe nói tình hình bên ngoài đang rất xấu. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng la hét vọng vào tận đây,” Félice nói. “Có phải chị bị thương trong lúc đó không?”

“Chúng đã bắt Unèl và nhiều người đi cùng anh ấy,” tôi đáp. “Đã có ai chết chưa?”

“Unèl trông rất tệ.”

“Một vài người ngồi trên bậc thềm vừa mới trốn vào đây từ bên ngoài,” cô nói. “Có lẽ tôi nên đứng đợi ở đây phòng trừ có thêm nhiều người khác đến. Chúng ta không muốn họ gây quá nhiều tiếng ồn trong lúc gọi cửa và đánh động bọn lính tìm đến đây.”

Bà già và cậu trai trẻ nhìn chăm chăm vào màn đêm sau vai Félice. Đầu tóc bà dính đầy lá và bùn đất. Váy của bà bị rách ở bên đùi và đằng sau lưng. Quần áo của cậu con trai xộc lên mùi hành tỏi. Bàn tay cậu chai sần, với những ngón tay cong và gãy gập như tay của ông già.

“Bọn lính có thể đang ở gần đây,” Félice kết luận, “nhưng Don Gilbert và Doña Sabine đang ở đây. Tiền bạc và địa vị của họ có thể bảo vệ được chúng ta.”

“Chúng tôi đã tưởng rằng sẽ phải ngủ qua đêm trong ruộng mía,” bà già lên tiếng. “Rất nhiều người sẽ phải ngủ dưới những hẻm núi tối nay.”

“Tôi nghe tin rằng Sebastien đã bị bắt ở nhà thờ,” Félice nói tiếp. “Cả Mimi nữa.”

“Bọn chúng áp giải ông bác sĩ cùng với những người có ý định vượt biên lên xe tải,” bà già kể. “Chúng nhốt hai vị linh mục riêng trên một chiếc xe khác. Các linh mục van nài những tên lính cho họ được ở cùng với những con chiên của họ, nhưng chúng không chấp thuận. Một trong hai vị linh mục đã khóc lóc thảm thiết.”

Chúng tôi đi quanh sân tìm Yves. Anh đang nằm ngủ trước một dãy phòng ngủ cho người làm. Hai phiến gỗ còn lại của Papi đang dựa lưng vào tường bên cạnh anh.

Yves ngồi bật dậy khi tôi vừa mới đặt tay lên vai anh. Anh dụi mắt và quay đầu nhìn quanh như thể đã quên mất mình đang ở đâu.

“Tôi đã bán được nửa số gỗ rồi,” anh thông báo.

“Yves, anh có tận mắt nhìn thấy chúng bắt Mimi và Sebastien không?” Tôi hỏi.

“Tôi nhìn thấy rất nhiều người bị bắt,” anh nói, đầu gục xuống. Doña Sabine cất tiếng gọi Félice. Bà và Don Gilbert đang ngồi tựa lưng vào hai chiếc ghế dựa dưới hàng hiên, với một ngọn đèn bão đặt giữa hai người. Félice băng qua sân và leo lên những bậc thang đá để tới chỗ họ.

“Ai đến đó?” Tiếng của Doña Sabine vang vọng qua sân. “Một người bạn,” Félice trả lời.

“Người bạn này của cô là ai vậy?” Doña Sabine hỏi dồn. “Chúng ta cần phải hết sức cảnh giác.”

“Cô cần cẩn thận với những người mà cô mở cửa cho vào.” Don Gilbert nhắc lại lời cảnh cáo của vợ mình. “Chúng ta sẽ đi ngủ bây giờ.”

Trên đường lên phòng ngủ, Doña Sabine đưa mắt nhìn quanh khu nhà. Giọng nói của bà nhuốm màu tuyệt vọng, “Chúng ta sẽ không thể cứu được tất cả mọi người.”

Họ thậm chí còn không chắc sẽ có thể cứu nổi chính mình. Sau khi doña và chồng đã đi vào nhà, tôi nói với Yves, “Tôi phải đi tới Dajabón. Có thể tôi sẽ tìm thấy Mimi và Sebastien tại đó. Tôi cần phải đi ngay bây giờ.”

Tôi có thể cảm thấy rằng Yves không hy vọng quá nhiều vào điều đó, nhưng anh vẫn đồng ý đi cùng tôi. Khi Félice trở lại, chúng tôi thông báo với cô về việc chuẩn bị ra đi.

“Cô hãy gói ghém một ít đồ đạc,” Yves bảo cô, “và đi cùng chúng tôi.”

“Tôi không thể đi được,” Félice từ chối. “Tôi sợ lắm. Có lẽ điều này nghĩa là tôi đang già đi. Khi còn trẻ, tôi chẳng biết sợ là gì cả. Còn bây giờ, lúc nào tôi cũng sống trong sợ hãi.”

“Yves và tôi sẽ ở bên cạnh cô,” tôi thuyết phục.

“Tôi không muốn chết bờ chết bụi trên đường,” cô lắc đầu quầy quậy.

“Hãy chuẩn bị đồ đạc và đi với chúng tôi,” Yves tiếp tục. “Sẽ không có ai phải chết bờ chết bụi cả.”

“Tôi đã quyết định rồi,” cô đáp. “Tôi sẽ ở lại đây để chăm sóc cho cha của Joël.”

Tôi cởi bọc đồ và đưa cho Félice chiếc mặt nạ hình Joël của Kongo. Chị đưa nó lên sát mặt và âu yếm vuốt ve khuôn miệng bằng giấy với những ngón tay.

“Trông nó thật giống anh ấy,” chị nhận xét.

Yves cầm lấy chiếc mặt nạ từ tay Félice, nhìn xuống nó trong giây lát rồi dúi nó lại vào tay cô.

“Những phiến gỗ này đáng ra được dùng để đóng quan tài,” anh nói, chỉ tay vào những phiến gỗ tuyết tùng của Papi đang dựa vào tường. “Vì cô đã quyết định ở lại đây, tôi sẽ để lại chỗ gỗ này cho cô để đổi lấy một cây mã tấu tốt.”

Félice đi vào trong phòng của một trong những người làm và quay trở ra với một cây mã tấu cho Yves và một con dao chặt thịt dài cho tôi. Cây mã tấu được bọc trong một cái bao da bò màu nâu nhạt cùng một sợi dây quai để Yves có thể đeo nó sau lưng. Tôi cuộn con dao sắc nhọn trong chiếc váy còn lại rồi gói nó vào trong bọc đồ.

Félice tiễn chúng tôi ra cửa và mở cửa cho chúng tôi.

“Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ được gặp lại hai người,” cô nói lời từ biệt qua khe cửa.

Chúng tôi lần theo một con đường dẫn về thượng nguồn con suối. Yves nhặt một cành cây và nhịp nó lên đùi trong lúc bước đi.

Chúng tôi sóng bước cùng với nhau trên hầu hết cả quãng đường đi. Anh để cho tôi đi lên trước khi con đường trở nên quá hẹp.

Trong suốt đêm đó, mỗi người chúng tôi chìm vào những suy nghĩ của riêng mình, cũng như những dự đoán về những gì đang chờ đợi chúng tôi phía trước.