Chương 32
Tối hôm đó, mẹ Yves chuyển sáu người em họ ra khỏi gian phòng thứ hai để Yves và tôi có thể cùng nằm trên chiếc giường cũ của anh. Cái giường được đóng từ bốn chân cột dính xuống sàn bằng nhựa đường và một tấm gỗ để đặt một cái đệm nhỏ và một mớ chăn màn cũ kỹ ở trên.
Phòng ngủ của mẹ Yves chỉ được ngăn cách khỏi phòng chúng tôi bởi một tấm mành kết bằng hạt. Lúc bà lên giường đi ngủ, anh đi theo bà vào trong phòng. Tôi ngồi một mình trên chiếc giường mới và mân mê quả cam trong lúc lắng nghe những tiếng động bên ngoài. Tôi có thể nghe được tất cả những gì mọi người quanh sân nói hay làm, tiếng họ cãi cọ hay chung đụng với nhau, từ những câu chuyện ngồi lê đôi mách cho tới tiếng khóc ngằn ngặt của bọn trẻ.
“Cô ấy là ai?” Bà mẹ hỏi Yves. “Gia đình cô ấy đang ở đâu? Họ còn ở đây hay đều đã chết trong cuộc thảm sát phía bên kia?”
Yves không nói gì cả. Tôi đi ra ngoài sân, tìm bếp lửa và một chậu nước, rồi dùng quả cam đắng để tắm gội theo lời chỉ dẫn của bà già trước cửa nhà thờ. Văng vẳng đâu đó tiếng bọn trẻ con cười khúc khích khi chúng nhìn ngó tôi qua những lỗ hổng trên cánh cửa. Bất chấp sự tò mò của chúng, tôi biết rằng cơ thể tôi chẳng còn là một kỳ quan gì hấp dẫn. Tôi cũng chưa bao giờ thực sự là một người đàn bà xinh đẹp, trước kia hay bây giờ cũng vậy. Giờ đây xác thịt tôi chỉ còn là một tấm bản đồ đầy những vết sẹo và vết bầm tím, một chứng nhân đầy tỳ vết.
Lúc tôi quay trở về giường, Yves vẫn còn đang ngồi trong phòng mẹ anh. Câu chuyện của họ đã chuyển qua những chủ đề không liên quan tới tôi, về những người bạn cũ đã chết hoặc chuyển đến nơi khác sinh sống, về miếng đất của cha anh đã bị bỏ hoang từ khi Yves đi.
Mỗi khi nhắm mắt lại, tôi lại nhìn thấy con sông và tưởng tượng ra cảnh Sebastien và Mimi chết đuối giống như mẹ tôi, cha tôi, và Odette. Để trốn chạy những suy nghĩ này, tôi lại tưởng tượng ra pháo đài của Henry I theo cách tôi đã nhìn thấy nó chiều nay, gần chạm tới bầu trời và cách xa con sông. Đắm mình vào những ký ức thời ấu thơ được bảo bọc bên trong pháo đài, tôi thiếp đi trong giấc ngủ.
Sáng hôm sau, tôi loạng quạng ra khỏi giường, cảm thấy ngượng ngùng vì đã ngủ nướng một giấc đẫy mắt. Mẹ Yves đang ngồi dưới gốc cây chuối rẻ quạt ngoài sân, rót nước sôi vào trong túi lọc đầy bột cà phê.
“Yves đi đâu rồi bác?” Tôi lên tiếng hỏi. Tôi còn không biết là anh có vào giường và nằm ngủ cạnh tôi tối qua hay không.
“Nó đang cày bừa trên mảnh đất của cha nó,” mẹ anh đáp. “Nó thức dậy sáng nay và nói rằng nó muốn đi trồng đậu trên những thửa ruộng của ông ấy.”
Tôi không biết Yves đã kể cho bà nghe những gì về tôi. Bà đứng dậy đi về phía tôi, nâng mặt tôi lên với hai bàn tay ướt, và đặt một nụ hôn lên trán tôi.
“Cháu hãy gọi bác là Man Rapadou,” bà nói. “Bác đã biết chuyện của cháu rồi.”
Bà đã biết câu chuyện nào của tôi? Yves đã kể cho bà nghe chuyện gì?
“Hãy quên tất cả những điều cháu biết trước cuộc thảm sát này đi,” bà nói tiếp. Có lẽ bà đang cố khuyên tôi đến với con trai bà và quên Sebastien đi, quên cả những ký ức và hình ảnh về anh vẫn còn trôi nổi trong đầu tôi như những mảnh vụn của một giấc mơ thoáng qua.
Yves cày bừa trên ruộng tới tận sẩm tối. Lúc đi vào nhà, tay anh được phủ một lớp bùn đất và khắp người anh bốc lên mùi đất, như thể anh đã xới tung cả thửa ruộng và đắp hết đất lên người vậy.
“Con đã trồng cả một ruộng đậu đũa hôm nay đấy,” anh khoe với mẹ.
“Mẹ đã bảo con rồi. Bây giờ chưa phải mùa,” bà cằn nhằn. “Mẹ cứ để rồi xem,” anh trả lời ương bướng.
“Bao giờ thì con định qua chào Man Denise?” Mẹ anh hỏi. Anh không trả lời.
“Con và con trai của bà ấy đã ra đi cùng với nhau. Việc con đến thăm hỏi bà ấy cũng là phải phép mà,” mẹ anh nói tiếp.
Yves đi ra ngoài sân tắm rửa. Tôi quay trở về phòng và nằm xuống giường, cố gắng dỗ giấc trước khi anh quay trở lại.
Khi anh bước vào và gọi tên tôi, tôi vờ không trả lời. Anh nằm xuống và co mình lại trên tấm nệm. Anh không nói mớ trong đêm ấy, và cả những đêm sau đó nữa.
Hôm sau, trong lúc Yves đang ở ngoài ruộng, tôi dò hỏi một vài người họ hàng của anh và biết được chỗ ở của Man Denise, mẹ của Sebastien và Mimi. Tôi hứa cho một cậu bé con kẹo bạc hà để cậu ấy dẫn tôi tới đó.
Ngôi nhà không cách nhà của Yves quá xa, nhưng nằm ở một khu vực thưa người ở hơn, với những căn nhà to hơn và nhiều cây cối hơn.
Tôi đi đi lại lại xung quanh ngôi nhà. Chẳng có gì diễn ra ở đó, ngoại trừ một cô gái trẻ chạy ra chạy vào sân với bình nước đội trên đầu.
“Người đàn bà sống trong căn nhà đó sẽ không đi ra ngoài đâu,” cậu bé dẫn tôi đến đó nói. “Cô có muốn vào trong nhà và nói chuyện với bà ấy không?”
“Không cần đâu,” tôi đáp. Làm thế thì được ích lợi gì? Bà ấy không biết tôi là ai, ngay cả khi các con bà vẫn sống cùng với bà trong vòng tay bảo bọc của ngôi nhà.
Ít lâu sau, cơ thể tôi bắt đầu cảm thấy khá hơn, mặc dù tôi vẫn hay bị ù tai và một chân của tôi vẫn gặp khó khăn khi co duỗi. Dù vậy, tôi vẫn đi ngang qua nhà Man Denise để xem có gì thay đổi không. Mỗi khi trên đường có nhiều tiếng huyên náo hơn thường lệ, hay có những người tụ tập thành nhóm trước cửa nhà, tôi lại chạy tới để xem có phải Man Denise đang rời khỏi nhà để đón các con bà hồi hương hay không. Luôn luôn có những người mới quay trở về từ bên kia biên giới để tạo dựng lại cuộc sống ở trong khu vực của bà và tôi.
Những ý nghĩ về ngày trở về của Sebastien khiến tôi ước gì tóc mình mọc trở lại dài hơn bây giờ, tai tôi hết ù, chân tôi có thể co giãn thoải mái, và quai hàm của tôi sẽ định hình trở lại và nở một nụ cười mà không làm cho tôi giống như một con la đang nhai cỏ.
Khi đêm xuống, nằm bên cạnh Yves, tôi càng lúc càng bị bủa vây bởi nỗi sợ rằng Sebastien sẽ không nhận ra tôi nữa nếu anh gặp lại tôi.