Chương 33
Yves dành hầu hết thời gian cày cuốc và trồng trọt trên những thửa ruộng của cha anh. Sau một ngày làm việc, lúc chiều muộn, anh lại tụ tập chuyện trò cùng bạn bè và hàng xóm.
Tôi không bao giờ trông thấy anh ở nhà mà chỉ nghe thấy tiếng anh cởi quần áo và trèo lên giường khi anh trở về lúc đêm đã khuya.
Vài tuần sau khi anh bắt đầu việc gieo trồng, tôi đợi anh nằm lên phía bên kia tấm đệm rồi hỏi, “Những hạt giống anh gieo đã bắt đầu nảy mầm chưa?”.
Kể từ lúc trở về, chúng tôi chưa hề nói về tình cảnh hiện tại của mình, thậm chí còn chưa bàn bạc với nhau cách thay đổi nó để khiến cho cả hai có thể nhắm mắt ngủ một cách dễ chịu hơn.
“Chỉ có cỏ dại mới mọc lên nhanh thế thôi,” anh đáp. “Thậm chí không phải loại cỏ nào cũng lên nhanh như thế được.”
Giọng nói pha chút hờn giận của anh khiến tôi nghĩ rằng anh không phải là một người nông dân may mắn, hay chí ít anh nghĩ rằng mình không may mắn.
“Một hôm nào đó tôi sẽ đi thăm ruộng cùng với anh nhé,” tôi ngỏ lời.
“Tại sao?” Anh hỏi lại.
“Tôi muốn nhìn mảnh đất của cha anh để lại.”
“Nó cũng đâu có khác gì với những miếng đất khác,” anh nhận xét. Tôi có thể nghe thấy tiếng anh ngồi bật dậy trên giường như tự chống chế cho điều mình vừa nói. Tôi nắm lấy tay anh trong bóng tối và áp chúng vào nhau để chứng tỏ cho anh thấy là tôi thực sự muốn bày tỏ lòng biết ơn âm thầm của mình, để có thể cùng nhau sống với gánh nặng của cả hai một cách tốt nhất có thể.
“Tôi nghe nói rằng các vị thẩm phán trị an của nhà nước đang làm công việc lắng nghe và ghi lại câu chuyện của những nạn nhân sống sót sau vụ thảm sát,” anh kể. “Generalissimo không công khai rằng lão ta đã gây ra vụ thảm sát, nhưng lão đã đồng ý bồi thường cho những người bị hại.”
“Tại sao lão lại làm thế?” Tôi không nghĩ rằng anh có câu trả lời, nhưng tôi hy vọng rằng anh biết.
“Để bớt đi cảm giác tội lỗi,” anh đáp, như ám chỉ rằng Generalissimo không muốn liên quan gì đến những vụ giết chóc. “Còn những người đã chết thì sao?”
“Họ sẽ bồi thường cho gia đình những người đó,” anh nói.
Tôi biết anh đang nghĩ gì, rằng có lẽ Man Denise nên đi gặp họ, trong trường hợp Sebastien và Mimi đã chết rồi.
Tôi bước xuống khỏi giường và ngồi bó gối ở một góc phòng, cách xa Yves hết mức có thể. Tôi thầm cảm ơn vì trời đã tối khiến cho chúng tôi không thể nhìn thấy sắc mặt nhau.
“Tôi muốn tự mình đi gặp ông thẩm phán trị an đó,” tôi nói.
“Tôi không chắc rằng họ sẽ đưa tiền cho cô,” anh đáp. “Đám quan chức có thể sẽ tìm cách ém nhẹm số tiền đó cho riêng họ. Họ sẽ bắt cô phải trình giấy tờ và bằng chứng.” Nhưng anh biết rằng tôi không trông đợi nhận được tiền, mà là thông tin về tung tích của Sebastien và Mimi.
Sáng hôm sau chúng tôi đi gặp ngài thẩm phán trị an. Ông ta ngồi ở trong một bốt công an sơn màu vàng trông như được tạc từ một khối đá núi khổng lồ. Bên ngoài, một đám đông hơn nghìn người đang đợi được cho vào. Một hàng rào quân lính từ Lực lượng Vũ trang Quốc gia 1 với vũ khí trang bị tận răng đứng chắn giữa bọn họ và cánh cửa hẹp dẫn vào tòa nhà.
1 Tiếng Pháp: Police Nationale.
Cả buổi sáng hôm đó, số người chờ đợi bên ngoài càng lúc càng nhiều lên, đến mức lúc tôi đứng dậy và ngoái nhìn lại phía sau, tôi không thể nhìn ra được đâu là con đường và đâu là những khuôn mặt người.
Yves không nói năng gì suốt buổi sáng. Thỉnh thoảng, anh lại bỏ đi lấy nước hay giúp khiêng một vài cụ già đã ngất xỉu vì cái nóng viêm nhiệt về nhà.
Khi chiều tới, những người bán hàng rong bắt đầu xuất hiện và mọi người bắt đầu chia sẻ câu chuyện của mình, như thể họ đang tập dượt cho cuộc gặp mặt chính thức với ông thẩm phán. Người đàn ông ngồi bên cạnh tôi đã đi bộ bảy mươi cây số để tránh đám đông đòi bồi thường ở chính thị trấn của ông. Một người đàn bà khác còn đến đây từ một nơi xa hơn nữa. Một vài người đang lên kế hoạch đi tới tận Port-au-Prince, nơi mới chỉ một số ít những người sống sót đã đến được.
Việc lựa chọn những người được đi vào bên trong diễn ra khá mập mờ. Những người bị dị tật nặng nề hay mang trên người những vết thương chưa lành được cho vào ngay khi họ tới nơi. Các bà bầu cũng được cho vào nhanh chóng cùng với những kẻ có chút tiền để mua chuộc đám quân lính.
Để giết thời gian, tôi nghĩ ra nhiều cách để cắt ngắn câu chuyện của mình. Có lẽ Yves và tôi nên đi vào cùng nhau và kể cùng một câu chuyện. Như vậy, chúng tôi sẽ tạo cơ hội cho một người khác được kể câu chuyện của họ.
Ông thẩm phán trị an bước ra khỏi cửa lúc mặt trời lặn. Ông ta mặc một chiếc áo trong nhà màu xanh lá cây giản dị và một cái đồng hồ quả quýt móc vào túi quần bằng một sợi dây vàng. Một tay ông cầm một cuốn sổ lớn bọc bìa da và tay còn lại cầm một cái cặp táp đen bóng. Sự xuất hiện của ông làm khuấy động đám đông. Những người lính giơ súng trường lên ra hiệu giữ yên trật tự để ông có thể phát biểu.
“Tôi không thể tiếp thêm ai hôm nay nữa,” ông thông báo. “Non (1) ,” đám đông rên lên phản đối.
(1) Tiếng Creole ở Haiti: Không.
“Và nếu tôi nói có thể gặp thêm một người nữa, thì tất cả các vị đây sẽ đều muốn mình là người đó,” ông nói tiếp.
“Non,” đám đông bất bình.
“Tôi sẽ quay trở lại vào ngày mai,” ông kết lời.
“Ngày mai ông hãy lắng nghe nhanh lên nhé,” ai đó kiến nghị. Đám lính bao bọc xung quanh ông thẩm phán trị an trong lúc ông quay vào trong đồn. Sau đó, chúng tôi nhìn thấy chiếc xe chở ông ta rồ ga phóng đi từ khoảnh sân được bảo vệ ở phía sau tòa nhà.
Đám đông chạy rượt theo ông ta, nhưng họ nhanh chóng bỏ cuộc. Nhiều người không thể chạy xa vì vết thương của họ, hoặc do họ đã kiệt sức vì phải ngồi dưới mặt trời cả ngày.
Người cuối cùng được diện kiến ông thẩm phán là một người đàn bà trạc ba mươi hay ba lăm tuổi. Chị ta mặc một bộ đồ trắng tinh, như thể sắp đi dự một buổi lễ nhà thờ. Chị đội một chiếc mũ rơm bạc phếch với dây quai màu xanh lá mạ buộc quanh cằm.
“Người ta làm gì cho cô ở trong đó?” Yves hỏi toáng lên. Những người khác trong đám đông cũng hùa theo, “Họ có đưa tiền cho cô không?”
Chị cởi mũ ra và nhìn quanh những khuôn mặt đang nhìn lên phía mình.
“Không, ông ta không đưa tiền bồi thường cho tôi,” chị vừa nói vừa ngoái lại nhìn để xin phép đám lính. “Các ông các bà có nhìn thấy cuốn sổ ông ấy cầm trên tay không?” Ngoái lại dò xét những tên lính lần cuối, chị quay lại nhìn đám đông. “Ông ta viết tên chúng ta vào cuốn sổ đó và nói rằng sẽ truyền đạt lại các câu chuyện của chúng ta tới Tổng thống Sténio Vincent để chúng ta có thể lấy tiền bồi thường.” Chị nhìn thẳng vào đám đông, không còn quan tâm xem đám lính có đồng ý cho chị chia sẻ thông tin hay không nữa. “Sau đó, ông ta để cho các ông các bà kể câu chuyện của mình, khóc lóc than thở, rồi hỏi xem chúng ta có đủ giấy tờ chứng minh thân nhân của mình đã chết hay không.”
Những người lính của Lực lượng Vũ trang Quốc gia trong bộ quân phục kaki giống như của quân đội Dominicana – một di sản cả hai bên cùng thừa hưởng từ việc được quân Yanki tập huấn chung trong thời gian xâm lược hòn đảo – tiến tới sau lưng người đàn bà và yêu cầu chị ta tránh ra khỏi cửa. Đám đông phản đối và rít lên giận dữ. Hai trong số những người lính cầm tay chị và lôi chị xuống khỏi bậc thềm. Chị ta giẫy giụa cố gắng thoát ra khỏi tay họ. Cuối cùng, ai đó trong đám đông kéo tay lôi chị về để đảm bảo an toàn cho chị.
“Nếu các người cố tình gây rối,” viên trung sĩ – người lãnh đạo nhóm lính – lên tiếng đe nạt, “các người sẽ không được phép quay lại vào ngày mai.”
Đám đông từ từ tản đi với suy nghĩ rằng liệu có ích lợi gì không nếu họ quay lại đây vào ngày mai.
Yves và tôi kiên trì quay trở lại trong suốt mười lăm ngày sau đó. Những gương mặt mới đến rồi lại đi. Một vài người đã không đến nữa. Một vài người nhất quyết không rời bỏ chỗ của mình ở trước bốt công an ngay cả khi trời mưa.
Ông thẩm phán trị an tới bốt mỗi ngày, ngoại trừ Chủ nhật. Vào ngày thứ mười sáu, chúng tôi đang chờ đợi trong vô vọng ở đằng sau đám đông khi chúng tôi trông thấy bà ấy.
Tôi nhận ra ngay bà ấy là ai khi Yves đứng bật dậy khỏi chỗ của mình và chạy ra đón bà.
“Man Denise, bác đã đến rồi đấy à,” anh chào bà.
“Tất nhiên bác phải đến chứ,” bà nói với một chất giọng sắc và nhanh giống con gái Mimi của bà. “Bác muốn ra đây cùng đứng với mọi người.”
Trông bà quá trẻ để có thể là mẹ của cả Sebastien và Mimi. Bà có đôi chân thon dài và khuôn mặt với nước da màu tượng đất chưa nung. Bà mặc một chiếc váy dài màu nâu nhạt chấm đất. Cúi cái cổ thanh mảnh, bà chào những người quen trong đám đông và gật đầu với những người còn lại. Bà liếc nhìn về phía tôi, nhưng không trông thấy tôi. Trái lại, bà đứng đó và quan sát đám lính. Mắt bà dõi theo cách họ đổi súng trường từ vai này qua vai khác, cách họ tựa vào nhau để thì thầm những chuyện bí mật. Bà liên tục mân mê vạt váy, lần sờ vào sâu bên trong túi váy để tìm một món đồ gì đó quá nhỏ so với tay bà.
Khi hoàng hôn buông xuống, ngài thẩm phán không đi ra ngoài để phát biểu trước đám đông nữa. Viên trung sĩ chỉ huy bước ra thay mặt ông ta thông báo rằng họ sẽ không tiếp nhận thêm người nào nữa. Tất cả chỗ tiền bồi thường đã được phân phát hết rồi. Vị thẩm phán trị an đã lẻn đi trong lúc không ai để ý, vì ông ta biết rằng đám đông sẽ nổi cơn thịnh nộ nếu họ trông thấy ông ta bỏ đi.
Phải mất một lúc mọi người mới nhận ra ý nghĩa của thông báo này. Sự thất vọng của họ dâng trào trong lúc tin tức truyền từ miệng người này qua người khác được diễn giải lại. Những tiếng kêu than và la hét biểu tình nổ ra. Nhiều người bắt đầu lên cơn co giật và ngất xỉu trong lúc những hòn đá bắt đầu bay lia lịa về phía đám lính.
Những người ở hàng đầu đám đông xông thẳng về phía cửa đồn. Được đào tạo bởi quân đội Yanki để trấn áp những vụ nổi loạn, đám lính bắn vô số phát súng chỉ thiên lên trời.
Một vài người lính bị đám đông túm được và lãnh hết cú thụi này đến cú đấm khác, nhưng bọn họ không phải là người mà đám đông quan tâm đến. Đám người lùng sục khắp đồn để tìm người sẽ viết tên họ xuống và chuyển câu chuyện của họ đến cho Tổng thống Vincent. Họ muốn một bộ mặt đại diện cho nhân dân xác nhận rằng những gì mà họ đã chứng kiến và trải qua là sự thật. Khi họ không thể tìm được người họ cần, đám đông giải thoát cho mười tù nhân đang bị nhốt trong phòng giam phía trong và bỏ đi cùng với vài vật dụng mà đám lính đã để lại: bảy cái ghế, sáu chiếc bi-đông, hai bình nước, ba chiếc khăn mùi soa, mười bốn cuộn roi da bò, mười bảy cây roi chín dải, hai chùm chìa khóa buồng giam, và một tấm ảnh cỡ đại của Tổng thống Vincent.
Tổng thống Sténio Vincent là một người đàn ông nhã nhặn với cặp kính nhỏ đeo sát mắt. Khuôn mặt phúc hậu như trăng rằm của ông được tôn lên bởi hai vành tai to đẹp. Một làn ria mép mỏng nằm trên đôi môi đăm chiêu suy nghĩ của ông, đôi môi của một thi sĩ. Trong tấm ảnh, ông thắt một cái nơ con bướm quanh cổ cồn. Phần đuôi của cái nơ chạm hờ hững lên tấm Huân chương Công trạng Đại thập tự Juan Pablo Duarte (1) sáng loáng được Generalissimo trao tặng cho ông như một biểu tượng cho tình bằng hữu trường tồn giữa hai dân tộc. Khi đám đông bắt đầu tưới dầu hỏa lên khắp bốt công an, tấm hình là thứ bị đốt cháy đầu tiên. Mặc dù vậy, những bức tường bê tông của tòa nhà không mảy may ảnh hưởng bởi ngọn lửa, chỉ có những cánh cửa gỗ và lớp sơn mỏng phủ lên tòa nhà bắt đầu bốc khói khét lẹt.
(1) Tiếng Anh: Grand Cross of the Juan Pablo Duarte Order of Merit (tiếng Tây Ban Nha: Orden al Mérito de Duarte, Sánchez y Mella). Đây là Huân chương Công trạng của nhà nước Dominicana, được chính phủ Dominicana trao tặng cho các nguyên thủ quốc gia, tổng thống đương nhiệm, hay cựu tổng thống.
Chúng tôi né tránh những viên đá và ngọn đuốc để lách mình ra khỏi đám đông. Yves tức tốc đưa Man Denise quay trở về nhà bà. Những người hàng xóm đã nghe tin về vụ bạo động và tụ tập để an ủi bà. Chẳng mấy chốc, nhà bà đã đông kín người: bạn bè của bà, những cô giúp việc cho nhà bà, và một vài người bán hàng rong thường hay thuê phòng trống trong nhà bà làm chỗ tá túc qua đêm trên những chuyến đi dài.
Những người bán hàng rong trải chăn chiếu ra trên sàn hai căn phòng trống từng thuộc về Mimi và Sebastien. Man Denise đã dời đồ đạc của hai anh em vào trong phòng bà để làm cho căn phòng bớt cô quạnh và cũng để tránh những người bán hàng táy máy hớt chúng đi, một trong các cô giúp việc giải thích.
Phòng của Man Denise nằm ở phía sau nhà. Trong phòng đầy ắp những thùng đựng dầu đóng kín nơi bà chứa các đồ đạc cá nhân cũng như những kỷ vật của Mimi và Sebastien.
Những người bán rong giúp bà trèo lên nằm trên một mớ quần áo phủ trên giường bà. Họ muốn bà cởi cái váy màu nâu nhạt ra và thay váy ngủ ở nhà vào nhưng bà từ chối.
“Xin các ông các bà bỏ quá cho tôi,” bà nói, xin lỗi vì mớ quần áo bùng nhùng trên giường và những thùng dầu ngổn ngang khắp phòng. “Hôm nay quả là một ngày vất vả cho bà già này.”
Những người hàng xóm mang vô số tách trà đến cho bà. Bà gượng ngồi dậy, nhấp từ mỗi cốc một ngụm, rồi nằm xuống vùi đầu vào gối.
“Mọi người làm ơn hãy để cho tôi nằm nghỉ,” bà yêu cầu.
Họ để bà lại một mình, nhưng tất cả đều có thể nhìn thấy bà từ căn phòng đông đúc nằm đối diện vì phòng bà không có cửa.
Tối hôm đó, Yves trở về nhà mẹ anh còn tôi ở lại nhà Man Denise. Sau khi bà ngủ, tôi rón rén đi vào phòng và nằm xuống ở chân giường bà. Tôi lắng nghe tiếng thở khẽ khàng của bà, như thể ngay trong giấc ngủ bà cũng cố gắng không làm phiền người khác.
Khi bà tỉnh giấc lúc nửa đêm để đi tiểu vào cái bô tráng men màu xanh, bà vấp ngã và suýt nữa đè lên người tôi. Tôi kéo cái bô đến gần giường và bà ngồi xuống mà không buồn hỏi xem tôi đang làm gì ở đó.
Sáng hôm sau, trước khi mặt trời mọc, tôi đi ra ngoài và ngồi cùng với những bà bán rong đang chuẩn bị cà phê sáng trước khi lên đường tới điểm tiếp theo trên hành trình của họ.
Trong lúc uống cà phê, bọn họ bàn tán với nhau liệu có phải Mimi và Sebastien đã biến mất vĩnh viễn nơi miền đất tử thần – cái tên họ dành cho quốc gia láng giềng – hay mọi thứ đã quay trở lại bình thường bên kia biên giới. Có thể tất cả mọi người bên đó đã tiếp tục với công việc thường nhật của mình, chí ít họ hy vọng vậy.
Trong lúc các bà bán rong ngồi tán gẫu, tôi nghe thấy tiếng Man Denise gọi xin nước. Tôi nhanh chân đi vào trước cả một trong những cô giúp việc, nhấc cái bình đất nung ở bên tường lên, và rót cho bà một ly nước đầy. Khi tôi kề cái ly gần miệng bà, bà vẫn chưa tỉnh ngủ hoàn toàn. Sau khi nhấp một vài ngụm, bà đẩy tay tôi ra.
Căn phòng trông sáng sủa hơn một chút trong ánh nắng buổi sớm. Bà nheo mắt nhìn, cố gắng nhớ ra tôi là ai.
“Cô là ai trong đám những bà bán rong?” Bà hỏi. “Cháu tên là Amabelle,” tôi trả lời.
“Nếu cô muốn trả tiền thuê chỗ đêm qua thì cứ để nó lên một trong mấy cái thùng dầu,” bà nói.
“Cháu không đến để trả tiền,” tôi giải thích. “Vậy cô đến có việc gì?” Bà hỏi lại.
Tôi đặt cái bình và ly nước xuống cạnh tường.
“Cháu quen với Mimi và Sebastien từ hồi còn ở bên kia,” tôi nói. Bà ngồi bật dậy và áp tay lên hai tai và hai má tôi, vuốt ve chúng như thể khuôn mặt tôi thuộc về bà.
“Cô biết Micheline và Sebastien của ta sao,” bà hỏi dồn dập. “Mimi và Sebastien của ta, cô có biết hai đứa nó ư?”
“Vâng,” tôi đáp.
Một nụ cười đau đớn dãn ra trên mặt bà. Bà buông tay khỏi mặt tôi và đan chúng vào nhau. “Ta không hề muốn các con ta bỏ đi và ở lại bên kia vĩnh viễn,” bà kể. “Bố chúng nó qua đời trong cơn bão. Lồng chim bồ câu của Sebastien cũng bị sập trong cơn bão đó, và thằng bé cảm thấy rất buồn phiền. Sau trận bão, lũ Yanki đã chiếm đóng căn nhà này với ý định phá nó đi để xây đường. Chỉ sau khi chúng rời đi thì ngôi nhà này mới được trả lại cho gia đình ta.
Bởi vì lúc đó chúng ta không có nhà để ở, con trai ta đã quyết định vượt biên trước, sau đó đến ta. Nhưng do chứng bệnh viêm phổi của ta, các con ta quyết định rằng ta nên tới sống cùng anh trai ta ở Port-au-Prince. Lúc đó trong nhà không còn một đồng nào, nên con gái ta quyết định đi theo anh trai Sebastien của nó và bọn chúng luôn dành dụm tiền để gửi về cho ta. Sau đó, ta trở về từ Port-au-Prince để nhận lại ngôi nhà. Nhưng các con ta không quay trở lại, một phần vì chúng không biết là tụi Yanki đã bỏ đi, một phần vì chúng không biết bọn ta đã lấy lại được quyền sở hữu ngôi nhà.”
Bà lần mò trong túi váy và lôi ra ba hạt cà phê sơn vàng, giống như những hạt cà phê trên chiếc vòng tay của Mimi của Sebastien.
Tôi đưa tay gẩy chúng, nhìn chúng lăn qua lăn lại và va vào nhau trong lòng bàn tay bà.
“Đây là những hạt sót lại từ cái vòng của ta,” bà nói, khép những ngón tay lại quanh chúng, “Nó đã đứt từ lâu rồi. Ta đã tết cho ta và mỗi đứa con ta một cái. Nhưng một lần, khi ta quá lo lắng cho hai đứa nó, ta đã giật cái vòng quá mạnh và làm đứt sợi dây. Đây là tất cả những gì mà ta còn giữ được từ cái vòng của mình.”
Tôi ước gì bà cho phép tôi chạm vào những hạt vòng đó một lần nữa. Bà cho tay vào trong túi váy và thả chúng lại vào đó.
“Cô hãy ngồi xuống đây với ta một lúc,” bà nói.
Tôi tiến lại gần hơn và ngồi xuống bên mép giường của bà. “Vậy là cô biết con gái Micheline của ta?” Bà hỏi.
“Cháu có biết Mimi.”
“Con bé luôn luôn là một đứa bất trị,” bà cười và nói. “Bố con bé đặt tên nó là Micheline. Nó có bao giờ kể cho cô chuyện này không?”
“Không,” tôi đáp. “Cô ấy chưa bao giờ kể cho cháu nghe chuyện đó.”
“Nhưng còn Sebastien, cô biết nhiều hơn về nó chứ? Cô có thân thiết với nó không?”
“Cháu và anh ấy rất thân nhau,” tôi trả lời.
Bà cười một nụ cười đầy ng ụ ý, g iống như nụ cười của Sebastien. Hai má bà nhô lên rồi hạ xuống bên cạnh khóe môi. “Ta đã tự mình đặt tên cho Sebastien,” bà kể, “theo tên một vị thánh. Cô có biết rằng Thánh Sebastien 1 không chỉ chết một mà những hai lần không?”
1 Vị thánh bảo hộ của quân đội, những vận động viên thể thao, và những người mong muốn một cái chết thanh sạch.
“Không, cháu không biết.”
“Lần đầu tiên, bọn lính bắn vào người ông ấy vô số mũi tên rồi để mặc ông ấy nằm chờ chết. Một góa phụ tìm thấy ông và phát hiện ra ông vẫn còn sống. Bà mang ông về nhà và chữa trị các vết thương của ông. Khi ông đã lành lặn trở lại, Thánh Sebastien quay lại gặp đám lính để chứng tỏ cho họ thấy rằng ông chính là minh chứng cho sự kỳ diệu của tình yêu. Lần này, bọn chúng nện ông bằng gậy gộc cho tới khi ông ấy chết hẳn.”
Bà đưa hai tay lên ôm đầu, như thể nó là một cái gì đó xa lạ, một gánh nặng đã trở nên quá sức với bà. Ngả người xuống giường, bà nắm chặt cái gối ở dưới đầu.
“Ta đặt tên nó là Sebastien,” bà kể tiếp, “vì ta biết rằng sẽ tốt hơn nếu một người đàn ông có thể chết hai lần. Cái chết đầu tiên luôn đến rất nhanh, nên sẽ tốt hơn nếu anh ta có một cái chết để dành.”
Tôi ngồi lại bên bà và kê lại gối cho bà. Tôi áp tay lên trán bà trong lúc bà ngước lên và nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi có thể nhận ra rằng bà tin tưởng điều gì đó ở tôi, mặc dù có lẽ chính bà cũng không biết đó là gì.
“Một chàng thanh niên đã đến đây gặp ta vài ngày trước.” Bà đưa tay lên và nắm chặt lấy tay tôi trên trán bà. “Anh ta đến gặp ta trên đường đi tới Port-au-Prince. Anh ta nói mình đã nhìn thấy các con ta bị giết trong một mảnh vườn đằng sau tòa nhà hành chính của một nơi tên là Santiago. Bọn chúng đã lùa các con ta vào cùng một nhóm người, bắt chúng nằm úp mặt xuống đất, rồi bắn chết chúng.”
Tôi cảm giác bà đang đè lên các ngón tay tôi mạnh đến mức chúng dính chặt lên trán bà. Toàn thân bà đang run lên bần bật, nhưng bà không hề khóc.
“Nếu là ta, liệu cô có tin lời anh ta nói không?” Bà hỏi tôi. “Không, cháu sẽ không tin,” tôi đáp. Nhưng trong thâm tâm, tôi lại nghĩ rằng, làm sao tôi có thể không tin đây? Nếu Sebastien còn sống thì tại sao đến giờ này anh ấy vẫn chưa trở về nhà?
“Cô biết Micheline của ta. Cô biết Sebastien của ta. Liệu cô có tin lời kể của cậu thanh niên đó không?” Bà hỏi dồn.
“Không, bản thân cháu sẽ không bao giờ tin,” tôi quả quyết. Nhưng sự thực là tôi có tin. Tôi tin bởi vì những gì tôi đã chứng kiến ở Dajabón, bởi vì những gì tôi đã được nghe kể về La Romana, bởi vì những gì tôi đã nghe những người ở trạm xá kể lại về những người đã bỏ mạng ở Santiago.
“Làm ơn hãy để ta nằm nghỉ,” bà nói và thả tay tôi ra. “Cháu muốn ở lại với bác,” tôi nói.
“Hãy để cho ta được nằm yên.”
Trong lúc tôi ra về, bà chặn tôi lại ở ngưỡng cửa và hỏi, “Cô có bao giờ thấy các con ta đeo chuỗi vòng tay mà ta làm cho chúng không?”
“Cháu chưa bao giờ thấy họ tháo chúng ra cả,” tôi đáp.
“Đây là điều mà những người mang tin tức đến cho ta đều nói. Không chỉ một, mà rất nhiều người. Họ nói rằng các con ta đã chết với chiếc vòng trên cổ tay chúng.”
Nhét tay vào túi váy, bà ép những hạt cà phê lên đùi mình. “Những người chết trẻ, họ đều bị lừa,” bà nói. “Không phải họ bị lừa đánh cắp mất cuộc sống, vì cuộc sống vốn dĩ dành cho việc sám hối. Nhưng những người chết trẻ, họ bị lừa bởi vì họ không biết rằng cái chết sẽ xảy đến. Họ không có đủ thời gian để xích lại gần nhau, để trở về nhà. Khi cô biết rằng cô sắp chết, cô sẽ cố gắng được quay về bên nắm xương của những người thân ở nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Khi còn trẻ, người ta không nghĩ rằng mình có xương. Ngay cả khi xương của họ bị gãy, họ vẫn không tin là chúng tồn tại. Nhưng khi cô đã già rồi, những khúc xương của cô sẽ nhắc nhở cô rằng chúng vẫn luôn ở đó. Chúng bắt đầu mủn đi thành cát bụi ngay trước mắt cô, ngay cả trong lúc cô đang bận đi hết nơi này tới nơi khác. Và đây chính là lúc cô ao ước được trở về bên cạnh nắm xương tàn của đồng bào mình. Các con ta chưa bao giờ được cảm nhận điều này. Bọn chúng buộc phải đối mặt trực diện với cái chết, trước cả khi chúng nhận ra cái chết là như thế nào. Giống như cách cô đã đối diện với cái chết, phải vậy không?”
Tôi gật đầu, chủ yếu bởi vì tôi biết bà muốn tôi làm thế.
“Ta ước gì người ta đừng tới và bảo với ta rằng các con ta đã chết nữa,” bà nói. “Ta ước mình có thể nuôi giữ hy vọng rằng chúng vẫn đang sống ở một nơi nào khác, ngay cả khi chúng sẽ không bao giờ trở lại để gặp ta.”
“Có lẽ những người mang tin đó đã nhầm.”
“Những người mang tin tới cho ta luôn luôn là những người lạ,” bà nói. “Họ không hề biết ta. Trước khi các con ta chết, hoặc đơn độc hoặc cùng với nhau, chúng đã nhờ họ tới và nói cho ta biết về số phận của chúng.”
Bà lại cho tay vào túi và nắm thật chặt những hạt cà phê.
“Cô hãy về đi,” bà nói. “Ta sẽ nằm xuống và mơ về những đứa con của mình.”
Tôi bước đi như một bóng ma qua những con phố tấp nập của Cap, tự hỏi mình mỗi khi tôi nhìn thấy những người mang dị tật – từ một cái mũi gãy cho đến cẳng chân tàn tật – rằng có phải họ đã trải qua những chuyện tương tự như tôi?
Tôi đi theo con đường từ nhà Man Denise ra bến cảng, nơi vài chiếc tàu ra vào kéo còi ầm ĩ trong khi những chiếc khác đang bồng bềnh gần cầu tàu chờ đợi người ta tới dỡ hàng. Từng bao tải gạo, đậu, và đường được phân chia giữa các thương lái và sau đó được vận chuyển đi bằng xe đẩy bởi một hàng những chàng trai trẻ mình trần. Với những bao tải đường nặng hơn cả thân người họ đội trên đầu, những chàng trai trẻ tuổi này hò hét những tiếng giận dữ để xin đường khi đi qua các con phố, tạo thành một bản tạp âm vang vọng.