← Quay lại trang sách

Chương 34

Khi tôi về tới nhà, Yves đã đi ra ngoài ruộng rồi. Tôi ngồi ngoài sân, vòng hai tay ôm quanh thân cây chuối rẻ quạt, cố gắng kiềm chế để không dộng đầu vào đó.

Man Rapadou đi ra ngoài sân trong bộ váy ngủ và nụ cười trên môi. Bà cầm theo một cái ghế và ngồi xuống bên cạnh tôi.

“Cháu không cần ông thẩm phán trị an đó,” bà ân cần nói. “Cháu không cần một người để xưng tội. Bác, Man Rapadou, bác biết câu chuyện của cháu.” Bà áp mặt vào gần mặt tôi và thầm thì để những người khác trong sân không nghe thấy. “Bác hỏi con trai bác tại sao giữa cháu và nó không có tình cảm gì, và nó đã kể cho bác nghe về Sebastien.”

Ngắm nhìn nụ cười hoàn hảo đang nở rộng trên gương mặt bà – một nụ cười đáng ra phải mang nhiều nỗi buồn hơn thế - tôi đưa tay vuốt ve thân cây chuối rẻ quạt vì không biết nên dùng chúng vào việc gì khác. Tôi với tay chạm vào những phiến lá xẻ hình cọ màu xanh ngả vàng đang uốn vào nhau giống như phần bên trong của một cái giỏ mây tre đan khổng lồ. Tôi muốn òa lên khóc nhưng không thể. Tôi muốn hét lên cho thỏa, nhưng nội việc gồng sức lên để hét thôi cũng đã khiến tôi cảm thấy kiệt sức.

“Khi con trai bác rời đi, bác đã trồng cây chuối rẻ quạt này, và giờ cháu nhìn xem nó đã lớn đến nhường nào,” Man Rapadou nói. “Yves nói rằng cháu biết may váy áo và đỡ đẻ. Giờ thì bác chẳng thể có con được nữa, nên có lẽ cháu sẽ may cho bác một cái váy đẹp chăng?”

Man Rapadou tử tế để tôi ở trong nhà suốt ngày hôm đó, nằm nghỉ một mình trên giường của con bà. Bà không gọi tôi vào ăn cơm ngay cả khi bữa cơm chiều đã được dọn ra. Trái lại, bà nói thầm từ ngoài cửa vào rằng bà đã để phần một đĩa đồ ăn cho tôi khi nào tôi cảm thấy bụng dạ dễ chịu hơn.

Nằm co ro trên giường, tôi âm thầm cảm nhận nỗi đau bên trong mà tôi không thể chạm tới hay gọi tên. Tôi không thể chấp nhận rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại Sebastien một lần nữa, mặc dù tôi biết điều đó là hoàn toàn có thể, giống như việc tôi sẽ không bao giờ được gặp cha mẹ tôi lần nữa, bất luận tôi đã khản tiếng gọi tên họ ngoài miệng và trong đầu không biết bao nhiêu lần. Tôi càng già đi thì ký ức về cha mẹ tôi ngày càng mờ nhạt, đến độ tất cả những gì tôi còn mường tượng lại được về họ là những giây phút cuối cùng của tôi với họ ở trên dòng sông. Những thứ còn lại tan ra và hòa vào nhau như nguyên liệu của một nồi súp đun quá lửa: những ảo ảnh và những cơn mộng mị, những mơ ước và những điều tưởng tượng. Liệu điều tương tự có xảy ra với Sebastien?

Tôi giả vờ ngủ lúc Yves nằm xuống giường đêm đó. Nhưng khác với mọi lần, tư thế nằm bất động của tôi không thuyết phục được anh.

“Các cây đậu của tôi đã nảy mầm rồi,” anh thông báo. “Có vẻ năm nay tôi sẽ trúng một vụ thu hoạch đây.”

Tôi không muốn cựa mình di chuyển. Có lẽ anh chưa biết chuyện của Mimi và Sebastien, và tôi cũng không biết phải kể với anh như thế nào.

“Tôi nghe đồn rằng,” anh nói, “các cha xứ ở nhà thờ sẽ lắng nghe và ghi lại câu chuyện của các nhân chứng trong vụ thảm sát.” Đây là món quà anh dành cho tôi, giống như đất mẹ đã tặng cho anh món quà là những mầm non đang đội đất nhú lên từ các hạt giống mà anh đã gieo.

“Họ không hứa hẹn tiền bạc gì cả đâu.” Tông giọng anh chập chờn lúc lên cao lúc xuống thấp, như thể anh bắt đầu tin rằng tôi thực sự đã ngủ. “Họ đang thu thập những câu chuyện để đăng báo và phát trên radio. Generalissimo đã tìm nhiều cách để mua chuộc đám người đi thu thập chứng cứ ở đây. Ngay cả vùng này cũng đã bị nhuốm bẩn bởi đồng tiền của lão ta.”

Tôi trở mình nằm ngửa và căng mắt ra tìm những đường rỉ sét chạy dích dắc trên mái tôn lợp nhà.

“Anh có định đến gặp các vị cha xứ này không?” Tôi hỏi.

“Tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra,” anh đáp. “Sau khi cô kể chuyện, họ sẽ viết lại nó theo cách họ muốn bằng những câu chữ mà cô không hiểu và bằng thứ ngôn ngữ của họ chứ không phải của cô.”

“Anh có định đi không?”

“Tôi đã đi rồi và nhờ họ kiểm tra trong các cuốn sổ của họ. Tên của Mimi và Sebastien không có ở trong đó. Tôi đang đón chờ những vụ mùa tươi tốt trên ruộng đồng. Điều này có nghĩa là chúng ta sẽ có tiền. Cô có thể mua vải và chỉ để bắt đầu may quần áo, tự kiếm đồng tiền cho riêng mình.”

Giây phút đó làm tôi nhận ra tương lai của mình còn muôn phần đáng sợ hơn quá khứ. Có lẽ việc lao động trên đồng ruộng và ngắm những mầm đậu nảy lên từ những hạt khô dưới đất đen có thể khiến Yves tin rằng anh đã quên đi tất cả. Nhưng tôi không thể tin rằng tiền bạc hay thời gian có thể khiến tôi quên được những chuyện đã xảy ra.

Đôi lúc, tôi nghĩ về những con người ở trạm xá nơi biên giới, đặc biệt là người đàn ông của Nounoune, người đã tỉnh dậy trong một cái hố toàn thây người, và người đàn bà háu đói với những vết dây thừng cứa quanh cổ. Tôi tưởng tượng ra cảnh bọn họ sẽ tiếp tục sống cuộc đời của họ, chăm sóc những mảnh vườn của họ, dắt gia súc của họ ra suối uống nước, nhảy tránh qua vệ đường để né xe tải phóng qua, gọi các con họ về nhà tắm rửa trước bữa tối, và làm tình với những người thương sau khi họ đã đoàn tụ.

Tôi muốn kéo họ từ trong tưởng tượng vào đời thực, để nói với họ tôi hạnh phúc thế nào khi thấy họ có thể bước tiếp tới tương lai. Nhưng quan trọng hơn, tôi muốn hỏi họ làm thế nào mà họ có thể mạnh mẽ được như vậy? Bí quyết của họ là gì? Bằng cách nào mà họ có thể gột rửa sạch sẽ cuộc đời mình khỏi quá khứ, dù chỉ trong phút giây ngắn ngủi.

“Làm sao anh có thể tiếp tục gieo trồng ngay cả khi không có hạt giống nào nảy mầm lên từ đất?” Tôi hỏi Yves.

Tôi có thể nghe thấy tiếng anh thở hắt ra và tặc lưỡi, cố gắng tìm cách biểu đạt chính xác câu trả lời của mình. “Những ngôi nhà vắng hay những cánh đồng hoang làm tôi cảm thấy buồn,” anh đáp. “Chúng quá yên ắng, như những mùa chết vậy.”

Anh nằm xích lại gần tôi hơn trên tấm nệm. Dường như cuộc nói chuyện của chúng tôi đã làm cho anh cảm thấy mình được phép làm như vậy.

Sau một khoảng dài im lặng, anh nói thêm, “Cái đêm mà Joël bị ô tô đâm, đáng ra tôi mới là người phải chết.”

“Tôi nghĩ rằng Sebastien cũng đã cảm thấy như vậy về mình,” tôi đáp.

“Không, không phải” anh lắc đầu. “Joël, Sebastien, và tôi đều đang đi cùng nhau trên đường. Joël đi ở giữa, còn Sebastien và tôi đi hai bên anh ấy. Tôi là người đứng gần lề đường nhất. Tất cả bọn tôi đều nhìn thấy đèn xe và nghe thấy tiếng còi xe cùng một lúc. Lúc chúng tôi vừa quay lại thì cái xe đã lao tới gần cổ họng tôi rồi. Joël vội đẩy tôi qua một bên nên anh ấy không đủ thời gian để tự cứu mình. Chiếc xe húc thẳng vào Joël và hất anh ấy bay xuống hẻm núi.”

Tôi lắng nghe tiếng ngáy to và tiếng trở mình Man Rapadou để chắc chắn là bà đã hoàn toàn say ngủ ở phòng bên cạnh.

“Sau đó, chiếc ô tô dừng lại và đám người bên trong xe túa ra,” anh tiếp tục kể. “Tôi không nhìn thấy Sebastien. Tôi không biết anh ấy đã đi đâu. Tôi tưởng rằng anh ấy cũng đã bị đâm trúng. Tôi trốn vào đằng sau một cái cây trong bóng tối. Ông già trên xe muốn ở lại và tìm kiếm chúng tôi, nhưng gã thanh niên còn lại, con rể của ông ta, đang rất nóng ruột muốn về nhà.”

Tôi muốn nói với anh rằng việc anh bỏ chạy là đúng đắn, thậm chí dũng cảm, rằng có lẽ hôm đó là ngày mà định mệnh bắt Joël phải chết, rằng anh ấy có khi sẽ phải chịu đựng một cái chết còn khủng khiếp hơn trong cuộc thảm sát. Tôi muốn nói với anh tất cả những điều mà người ta thường nói để an ủi chính mình chứ không phải người nghe.

“Nếu tôi không quyết định đi bán mớ gỗ đó thì tôi cũng đã chung số phận với Mimi và Sebastien ở nhà thờ rồi.” Anh tiếp tục kể. “Đúng, tôi đã nhìn thấy bọn chúng tống Sebastien, Mimi, cùng những người khác lên một cái xe tải. Tôi đã chứng kiến tất cả từ con đường cái. Chúng bắt họ đứng thành từng nhóm sáu người rồi ép họ leo lên xe. Các cha xứ cầu xin được ở cùng với các con chiên của họ, nhưng bọn chúng kéo họ đi một nơi khác rồi dồn ông bác sĩ và những người còn lại lên xe. Bọn chúng nói với bác sĩ Javier rằng nếu ông ấy muốn sống như một gã Haiti thì bọn chúng sẽ xử ông ấy như một gã Haiti. Tôi nhìn thấy Mimi leo lên xe khi tới lượt của cô ấy. Chân cô ấy run lên và cô ấy suýt nữa thì ngã xuống. Ông bác sĩ đưa tay kéo cô ấy lên, còn Sebastien thì chống lưng cô ấy từ phía sau. Tôi nhìn thấy tất cả những chuyện này từ nơi tôi ẩn nấp ở gần đường cái. Tôi muốn cứu họ như cách mà Joël đã cứu tôi, nhưng tôi đã không làm vậy. Tôi đã không làm được. Ngay cả lúc vượt sông với Wilner, tôi cũng không làm được gì cả. Suy nghĩ rằng tôi nên bơi ngược qua sông và mang xác anh ấy về để chôn cất ở bên kia biên giới đã thoáng qua đầu tôi. Nhưng rồi tôi nghĩ đến tất cả bọn lính và những nòng súng của chúng, và tôi không thể. Tôi đã không thể cứu được ai như cách mà Joël đã cứu tôi. Và tôi sẽ không bao giờ làm được. Không bao giờ và không thể nào. Bởi vì tôi càng nhìn thấy nhiều người chết thì tôi càng muốn bảo vệ cái mạng của mình hơn!”

Tôi đặt tay mình lên bắp chân run rẩy đẫm mồ hôi của anh, để giúp anh giữ yên lặng và bình tĩnh lại. Những ngón tay tôi lần mò lên đùi anh dưới sự dẫn dắt của bàn tay anh. Tôi cảm nhận gương mặt anh trong đêm tối và vuốt ve yết hầu to bự của anh. Nó giật lên giật xuống nức nở như sắp sửa vọt ra khỏi cổ họng anh.

Anh quay người về phía tôi và luồn tay kéo chiếc váy ngủ tuột khỏi bờ vai tôi. Trong một lúc lâu, chúng tôi nằm ngửa trên giường và nhìn chằm chằm vào bóng tối trên đầu. Giờ thì sao đây? Chuyện gì vừa mới xảy ra? Nhưng liệu chúng tôi còn có thể giãi bày được với ai khác chứ?

“Tôi cũng đã có thể cùng chung số phận với Mimi và Sebastien ở nhà thờ,” tôi nói, “nếu tôi không trông thấy hai vết máu sau váy của señora và quyết định ở lại với chị ấy thêm một lúc nữa. Và có lẽ Odette đã không bỏ mạng trên con sông nếu tôi không bịt tay lên mũi cô ấy quá chặt, mặc dù tôi không hề có ý định làm như thế.”

“Odette đã chết khi Wilner ra đi rồi,” anh đáp. “Bọn chúng đã giết Odette khi chúng bắn chết anh ấy.”

Tôi thực sự biết ơn anh vì câu nói này, nhiều hơn là anh nghĩ. Cơ thể anh lập tức chồm lên để áp vào cơ thể tôi khi tôi trèo lên người anh. Có lẽ tôi nhẹ cân hơn anh tưởng, xương xẩu hơn và nhỏ bé hơn anh vẫn nghĩ. Có lúc tôi cảm tưởng như anh đang bế tôi, như cách mà Señora Valencia đã ôm ấp con trai và con gái chị trong bụng mình, như cách Kongo có lẽ đã cõng con trai Joël của mình sau khi anh ấy chết, như cách Yves và sau đó là những người xa lạ đã khiêng Odette đi. Rồi đến lượt tôi bế anh ấy. Đến một lúc nào đó, tôi cảm thấy như chúng tôi đang bồng bềnh trôi trong những suy nghĩ và nước mắt của chính mình, nhưng đồng thời cũng kết dính với nhau theo một cách nào đó.

Trong nhiều tháng, tôi đã tưởng tượng giây phút trở về của Sebastien, và băn khoăn liệu xác thịt tôi lúc đó còn có thể cảm nhận được gì khác ngoài nỗi đau. Có lẽ Yves cũng đã băn khoăn điều tương tự.

Anh hổn hển từng hơi thở nhanh và mạnh, như tiếng rít của hơi nước sôi làm cho nắp nồi kêu lục bục. Rồi cơ thể anh đột ngột đông cứng lại và trở nên nặng nề hơn. Tôi tưởng rằng tim anh đã ngừng đập và anh đã trút hơi thở cuối cùng ngay trên người tôi. Anh nghiến chặt răng và thì thầm điều gì đó với chính mình, cố gắng phun ra tất cả những thứ đang cố ẩn náu một cách an toàn trong người anh. Cuối cùng, tất cả những gì anh nặn ra được là một suối nước mắt. Những giọt nước mắt của anh lăn xuống trán tôi làm mắt tôi cay xè, và khiến cho lỗ mũi tôi hắt hơi khi chúng tìm đường lăn vào đó. Chúng để lại trên lưỡi tôi một mùi vị cũng giống những giọt nước mắt của chính tôi.

Sau khi anh quay người và nằm lại phía bên giường của mình, tôi cảm thấy một sự trống rỗng còn lớn hơn phập phồng ở đáy bao tử. Tôi mặc váy ngủ lại và chui xuống dưới tấm chăn.

Anh bước xuống khỏi giường, mặc quần, rồi đi ra ngoài sân, để mặc cánh cửa mở hé. Ngồi dưới gốc cây chuối rẻ quạt, anh chăm chú nhìn lên trời và bóc một gói thuốc lá La Nationale nữa.

Trong ánh trăng mờ ảo, tôi có thể nhìn thấy đường nét của những khúc xương lồi lên trên lưng anh. Sau khi hút hết vài điếu thuốc, anh quăng cả bao thuốc vào tường nhà rồi quay vào phòng. Khi anh leo lên giường, tôi giả vờ như đã ngủ - hoặc thậm chí là đã chết.