Chương 36
Tối hôm đó, tôi viết một bức thư ngắn để đưa cho Cha Romain nếu tôi gặp được ông. Bức thư được gửi cho bác sĩ Javier. Nếu ông ấy không còn ở trong nhà lao, có lẽ ông ấy sẽ đến thăm Cha Romain ở biên giới.
Làm ơn, thưa bác sĩ Javier,
Tôi sẽ vô cùng biết ơn nếu ông có thể chỉ cho tôi nơi tôi có thể tìm thấy Micheline Onius và Sebastien Onius, những người được cho là đã bỏ mạng ở Santiago tại thời điểm của vụ thảm sát. Tôi rất mong được biết nếu ông đã gặp họ hay chứng kiến chuyện đó xảy ra.
Kính thư,
Amabelle Désir
Tôi đề địa chỉ nhà Man Rapadou trong bức thư, cùng với số nhà của người thương lái chuyên cung cấp đường và bột cho chúng tôi.
Nếu bác sĩ Javier nhận được thư của tôi, ông ấy sẽ biết có thể tìm thấy tôi ở đâu.
Khi Yves lên giường tối hôm đó, anh nằm dịch ra sát mép tấm đệm và cố gắng để không có động chạm gì xảy ra giữa chúng tôi. Trước khi anh ngủ thiếp đi, tôi nói với anh rằng ngày mai tôi sẽ đi gặp Cha Romain ở biên giới.
Sáng hôm sau, anh thức dậy sớm để ra đồng. Trước khi đi, anh để lại cho mẹ anh mười đồng gourde và bảo bà đưa một ít cho tôi làm lộ phí cho chuyến xe tải đi tới biên giới.
Trên cuộc hành trình về lại biên giới, tôi không khỏi choáng ngợp trước vẻ đẹp hùng vĩ của những dãy núi. Những đường cong như những vòng eo hoàn hảo trở nên rõ ràng hơn khi xe chúng tôi chạy trên con đường song song với chúng.
Chiếc xe dừng trước một cánh đồng đầy bụi đất và cỏ dại gần nông trại bên cạnh khu trạm xá tạm bợ trước kia. Trong lúc đi tới khoảnh đất nơi những người chết và bị thương từng nằm, tôi nghĩ tới Odette và bụng dạ tôi quặn lên nôn nao.
Đất dưới chân tôi bỗng chao đảo. Tôi cảm giác như mặt trời đang sà xuống sát người tôi cho tới khi nó nằm ngay cạnh mặt tôi làm da thịt tôi tan chảy và mắt tôi mù lòa. Những hòn đá dưới đất phình to lên bằng cái gối. Cuối cùng, tôi nằm khụy xuống trên nền đất như cách người ta thả mình xuống một chiếc giường ấm áp.
Tôi biết rằng mình cần phải kêu cứu, nhưng chẳng có ai qua lại nơi đây, dù còn sống hay đã chết. Vả lại, tôi đang chìm trong một cảm giác vô cùng thư thái và không muốn bị quấy rầy. Một bầu trời đầy cỏ và những thanh gỗ đóng thành chữ X trên cổng trang trại đang xoay vòng trên đầu tôi.
Tôi bỗng nhớ lại, khi còn bé, một lần tôi đã được nhìn cảnh cha mẹ tôi đỡ đẻ cho một bé trai. Một tháng sau, mẹ đứa bé gửi nó ở nhà chúng tôi để đi chợ. Trong lúc ngủ, thằng bé cuộn tròn người lại và bắt đầu xoay vòng tròn ở trên giường. Tôi ngồi nhìn nó một lúc lâu trước khi cất tiếng gọi cha tôi đang bổ củi ngoài sân và mẹ tôi đang giặt quần áo phía sau nhà.
“Con nghĩ thằng bé này bị quỷ nhập rồi,” tôi bảo họ.
Cha tôi phá lên cười và vỗ đánh đét một cái vào mông thằng nhỏ. Nó lập tức ngừng cơn quay cuồng của mình. Sau đó, cha tôi giải thích rằng, đôi khi trong năm đầu của cuộc đời, cơ thể của trẻ sơ sinh vẫn lưu giữ những ký ức trong lúc được sinh ra, và chúng phải lặp lại trải nghiệm đó nhiều lần trước khi có thể quên nó. Khi chúng làm điều này, con phải giúp chúng nhớ rằng chúng đã chui ra khỏi bụng mẹ rồi bằng cách vỗ vào mông chúng như cách chúng ta đã làm ngay sau khi chúng chào đời.
Một hồi lâu sau, tôi tỉnh lại và gắng gượng đứng lên. Thật kỳ diệu là cú ngã không làm cho tôi xây xát gì. Tôi chùi mặt bằng cả hai mu bàn tay rồi đi về phía một ngôi nhà xây bằng đá vôi ở đằng xa. Nó đứng đơn độc ở giữa một cánh đồng rộng mênh mông. Một bà già đang ngồi tách vỏ đậu Hà Lan bên bậu cửa. Hai ngón cái của bà thoăn thoắt tẽ vỏ đậu và đẩy những hạt đậu màu xanh tròn trĩnh vào một cái bát đã đầy một nửa.
“Cháu tới đây để gặp Cha Romain,” tôi cất tiếng.
Bà ta chỉ tay về phía một túp lều mái tôn giống như một cái hộp bằng giấy bìa ở cuối cánh đồng.
Cửa trước của túp lều không đóng, nhưng tôi vẫn đưa tay gõ cửa. Một người đàn bà trẻ đi ra, mặc trên người một chiếc váy mỏng in hoa. Bộ ngực nhỏ nhắn của cô nhấp nhô nửa kín nửa hở bên dưới lớp vải. Cô đang phe phẩy hai miếng vỏ quả phượng trên tay. Chúng va vào nhau và tạo nên những tiếng động chát chúa.
“Cho tôi hỏi Cha Romain có ở đây không?” Tôi hỏi.
“Cô là ai mà muốn kiếm anh ấy?” Cô tiếp tục lắc hai mảnh vỏ phượng, khiến cho tôi khó mà nghe được cô nói gì giữa những tiếng lốp đốp.
“Họ gọi tôi là Amabelle,” tôi giới thiệu. “Tôi quen Cha từ hồi còn ở Alegría.”
Vung vẩy hai mảnh vỏ có phần mạnh hơn, cô giải thích, “Tôi làm thế này mỗi khi tôi không ở bên cạnh anh trai tôi để anh ấy biết tôi ở đâu. Nó giúp anh ấy cảm thấy yên tâm.”
Bước ra khỏi cửa, cô ra hiệu cho tôi đi vào trong nhà.
“Đừng buồn nếu anh ấy không nhớ ra cô là ai,” cô căn dặn. “Có rất nhiều người đã đến gặp anh ấy để hỏi về tung tích những người thân của họ. Nhưng trong khi bị bắt, anh ấy luôn bị giam cùng với ông cha còn lại, Cha Vargas. Anh ấy không hề biết những tù nhân Haiti khác bị giam ở đâu.”
Cô ngừng phe phẩy và dẫn tôi đi qua một căn phòng trống, rồi tới một khoảng sân nơi Cha Romain đang ngồi trên một cái ghế đẩy dưới những gốc xoài.
“Jacques!” Cô kêu tên ông. “Anh có người quen ở Alegría tới thăm này.”
Cha Romain đội một cái mũ rơm rộng vành che gần kín mặt. Một chùm lông đen rậm rì lấp ló dưới cổ chiếc áo sơ mi rộng của ông. Bàn tay ông run rẩy lóng ngóng buộc một miếng giấy mỏng màu cam quanh khung của một con diều nhỏ xíu. Mỗi khi quai hàm ông giật cục, ông lại đưa tay lên gãi cằm để xoa dịu cơn co giật.
“Ai đến đó?” ông lẩm bẩm. Nước dãi ở hai bên mép ông nhễu ra nhóng nhánh. Dù đang độ tuổi trung niên, ông mang gương mặt của những người đã không còn nhận biết được mọi thứ xung quanh, những người mà cuộc đời của họ đang dần nhòa đi thành một vũng mờ thăm thẳm và nhãn quan của họ đã mờ đục vì tuổi già.
Em gái ông đi vào nhà và mang ra một cặp ghế nữa. Cha Romain đảo mắt lên xuống, hết nhìn những nhánh xoài rồi nhìn tới em gái ông, trước khi ông nhìn thấy tôi.
“Nói cho anh ấy nghe những gì cô cần nói, và nhớ nói to lên nhé,” em gái ông nói. “Đầu óc anh ấy bây giờ lẩn thẩn lắm.”
“Thưa Cha, tên con là Amabelle Désir,” tôi nói với ông.
“Phải, Amabelle Désir.” Cổ họng ông phát ra những tiếng lầm bầm xa xôi trong lúc ông giơ con diều lên ngang mặt.
“Thưa Cha, Cha có nhận ra con không?” Ông lắc đầu quầy quậy.
“Cha không nhớ con là ai ư?” “Không,” ông lặng lẽ đáp.
“Thưa Cha, con cần biết rằng liệu cha có gặp Mimi và Sebastien Onius trước hay sau khi cha bị bắt giam không.”
Vị cha xứ lắc đầu đằng sau chiếc diều. “Nhà giam à? Wi. Wi. Ta đã gặp rất nhiều người trong nhà giam.”
“Cô thấy cách nhà tù đã làm anh ấy già đi đến thế nào rồi đấy,” em gái ông thốt lên căm phẫn.
“Tổ quốc của chúng ta là gia sản thừa kế đáng tự hào nhất mà ta có thể để lại cho con dân của ta,” Cha Romain bắt đầu lảm nhảm. Đôi mắt ông nhìn em gái một cách vô hồn như thể ông đang dùng hết sức lực tư duy để hiểu được những câu từ của cô ấy và cả tôi nữa.
“Chúng ép anh ấy phải nói đi nói lại những điều đó đến nỗi bây giờ anh ấy cứ tự lảm nhảm mỗi khi đầu óc anh ấy không tập trung,” em gái ông giải thích.
“Trên hòn đảo này, bước một bước quá xa về bất kỳ phương hướng nào, ta có thể bắt gặp những nhóm người bất đồng ngôn ngữ,” Cha Romain kiên quyết tiếp tục bài diễn ngôn lạc lõng của mình. “Mẫu quốc của chúng ta là Tây Ban Nha, còn bọn chúng thuộc về châu Phi tăm tối, các người hiểu chưa? Bọn chúng từng có thời chỉ đến đây để cắt mía, nhưng bây giờ đám bọn chúng còn sinh sôi nhiều hơn cả những thân mía cần phải cắt, các người hiểu chưa? Vấn đề ở đây là chúng ta đang bị lép vế. Hãy nói ta nghe, có ai trong số các người muốn nhà mình bị chiếm cứ bởi những người khách, đến mức mà đám khách đó thế chỗ cả những đứa con của các người? Làm thế nào mà quốc gia này có thể thuộc về chúng ta nếu chúng ta bị áp đảo về số lượng bởi những kẻ ngoại lai? Chính vì thế, những người yêu nước trong số chúng ta đang ra tay để đảm bảo đất nước này mãi là của chúng ta.”
“Một khi anh ấy đã bắt đầu lảm nhảm thì tôi không thể dừng anh ấy lại được,” em gái ông nói, cố gắng dùng ngón tay để lau bọt mép đang dây rớt ra hai bên má anh trai mình.
“Đôi lúc ta không thể tưởng tượng được làm sao hai tộc người khác nhau đến thế lại được sinh ra trên cùng một hòn đảo,” Cha Romain tiếp tục nói như một cái máy thu băng đã hỏng. “Chúng ta, những con dân của Dominicana, phải duy trì truyền thống và nếp sống riêng của mình. Nếu không, chỉ trong vòng không đầy ba thế hệ nữa thôi, tất cả chúng ta sẽ biến thành bọn Haiti. Trong vòng ba thế hệ nữa, dòng máu của con cháu chúng ta sẽ trở nên uế bẩn hoàn toàn nếu chúng ta không tự bảo vệ bản thân mình, các người hiểu chưa?”
Cuối cùng, có lẽ đã thấm mệt vì nói quá nhiều, Cha dừng lại và gục đầu xuống, cằm ông trễ xuống tận ngực.
“Anh ấy bị đánh đập dã man mỗi ngày,” cô em gái vừa kể vừa xoa vai cho anh trai. “Khi anh ấy mới trở về, anh ấy kể rằng bọn chúng đã thắt một sợi dây quanh cổ anh và siết thật chặt đến nỗi nhiều lúc anh ấy cảm thấy mình sắp phát điên. Chúng không cho anh ấy uống gì ngoài nước tiểu của chính anh ấy. Đôi lúc anh ấy nhớ tất cả mọi chuyện. Nhưng cũng có lúc anh ấy quên hết tất cả mọi thứ, kể cả tôi.”
“Quên hết đi,” Cha Romain lại lẩm bẩm. Ông quay trở lại tập trung vào việc tỉa tót chiếc diều. Với một sức mạnh lạ thường mà ít ai ngờ còn tồn tại trong đôi bàn tay run rẩy của mình, ông xé toạc một mảnh vải từ vạt áo trước để buộc thành một cái đuôi diều thật dài.
“Non, Jacques,” em gái ông liên tiếng quở trách, như một bà mẹ trẻ răn dạy đứa con ngỗ ngược. “Anh ấy đã làm hỏng không biết bao nhiêu cái áo rồi đấy,” cô quay về phía tôi và nói.
“Cô có quen biết bác sĩ Javier không?” Tôi hỏi em gái của Cha. “Jacques, anh có nhớ ông bác sĩ nào tên là Javier không?” Cô quay sang hỏi ông.
Cha Romain không nói gì, chỉ tiếp tục chăm chú buộc mảnh vải áo vừa xé vào đuôi diều.
“Tôi không biết tất cả bạn bè của Jacques,” cô em gái đáp lời tôi. “Anh ấy là một cha xứ. Còn tôi là một ca sĩ, thậm chí còn không phải một ca sĩ hát thánh ca nữa.”
“Cô định ở lại đây trong bao lâu?” Tôi hỏi cô.
“Cho tới chừng nào anh ấy còn muốn ở đây,” cô đáp. “Cô đang sống ở đâu?”
“Ở Cap-Haïtien,” tôi trả lời, “tại nhà của một người đàn bà tên là Man Rapadou.”
“Gia đình chúng tôi cũng có một ngôi nhà khang trang ở Cap-Haïtien, gần nhà thờ lớn,” cô nói. “Tôi hy vọng anh ấy sẽ sớm để cho tôi đưa anh ấy về đó. Ngay cả trong tình trạng này, Jacques vẫn muốn quay lại bên kia biên giới để tìm những giáo dân mà anh ấy từng phụng sự ở thị trấn nhỏ trong thung lũng đó, nhưng anh ấy sẽ cầm chắc cái chết nếu anh ấy dám vượt biên lần nữa.”
Cô em gái lại lắc hai miếng vỏ quả phượng một lần nữa. Cha Romain ngẩng đầu nhìn lên, hai mắt ông chợt long lanh như mắt của một chú chó đói bụng được gọi để chuẩn bị cho ăn.
Khi tôi chào từ biệt Cha, ông chào tôi như thể đây lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau.
Tôi đặt lá thư của tôi vào tay em gái của Cha. “Xin cô hãy đưa cái này cho ông ấy lúc ông ấy tỉnh táo hơn và nhớ được mọi chuyện,” tôi khẩn cầu.
Trong lúc rời khỏi nhà của Cha, tôi bỗng dưng nảy ra ý muốn quay lại con sông, nhưng không thể. Thay vào đó, tôi mơ tới việc trốn thoát ra khỏi thế giới này, ở trong nhà mãi mãi, không có ai và cũng không cần ai bầu bạn tâm sự. Tất cả những gì tôi muốn chỉ là cuộc đời định sẵn với những công việc tẻ nhạt mà tôi có thể lặp đi lặp lại mà không cần bỏ công sức hay quyết tâm, một cuộc sống nơi mọi thứ không khi nào thay đổi, ngày hôm nay giống hệt như ngày hôm qua.
Đêm đó, lúc nằm trên giường, tôi kể cho Yves nghe về chuyện đi gặp Cha Romain ở biên giới.
“Cô không nghĩ rằng tôi đã tìm đến đó rồi hay sao?” Anh hỏi. “Cô nghĩ rằng tôi chưa nhìn thấy ông ta hay sao, gã tâm thần (1) tội nghiệp đó?”
(1) Tiếng Creole ở Haiti: bèkèkè. Từ chỉ một người điên hay tâm thần.
“Xin anh đừng gọi ông ấy như thế,” tôi nói.
“Cô có nhìn thấy tình trạng của ông ta bây giờ không, mất tự chủ và nói năng lảm nhảm? Em gái ông ta là người đã nói cho tôi biết rằng bọn chúng đã dàn dựng để cho những vụ giết người trông như được thực hiện bởi đám nông dân cầm mã tấu, như thể không có một khẩu súng trường nào đã nhả đạn như với Wilner hay không?”
“Tại sao anh không nói với tôi rằng anh đã đi gặp ông ấy? Anh có biết rằng Man Denise đã bỏ đi, rằng bao nhiêu người đã đến nói với bà ấy rằng Mimi và Sebastien đã chết rồi hay không?”
“Tôi không có nghĩa vụ phải thông báo cho cô tôi biết những gì hay đi những đâu,” anh gằn giọng.
Yves chìm vào giấc ngủ trong sự im lặng nặng nề trộn lẫn cơn giận và cảm giác tội lỗi. Như Sebastien, anh ấy đã luôn sống để lao động. Hai chu kỳ quan trọng nhất trong cuộc đời họ là mùa thu hoạch mía và quãng thời gian chết giữa các vụ mùa. Bây giờ tất cả những gì anh ấy còn có thể làm là trồng trọt và gieo hạt để né tránh những mùa chết đó.