Chương 37
Đùa chết đối với tôi giống như một đêm trường bất tận.
Tôi luôn có một giấc mơ thường trực rằng mình sẽ quay trở lại để đối diện với con sông, ngọn thác, ông thẩm phán trị an, hay thậm chí là Generalissimo, để làm chứng cho câu chuyện của mình.
Biên giới là một tấm khăn voan không phải ai cũng có thể khoác lên. Thung lũng ẩn hiện như một giấc mơ trưa, với ngôi làng và cư dân của nó, và Joël tội nghiệp, nằm bên dưới một nấm mồ mà chỉ một ông già với trái tim tan vỡ biết nó nằm ở đâu.
Tôi quay trở về với Odette đang ném trả từ “pèsi” vào mặt Generalissimo, vì bản thân tôi sẽ không biết phải phát âm nó như thế nào. Cho dù tôi nói có tệ cách mấy, cổ họng tôi vẫn sẽ bật ra từ “perejil.” Đâu đó bên trong tâm can mình, có lẽ tôi vẫn tin rằng một từ đơn giản như vậy có thể cứu mạng tất cả chúng tôi.
Tôi chưa bao giờ có ý muốn bỏ trốn. Mặc dù tôi biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng tôi không muốn chạy trốn. Những câu hỏi “Bỏ chạy đi đâu?” và “Trở về với ai?” cứ ngân lên trong đầu tôi.
Trong số tất cả những người bị giết, tôi đồ rằng có nhiều người cũng hỏi những điều tương tự như tôi. “Trở về với ai?” Ngay cả trong giây phút cận kề cái chết giữa những lời cầu nguyện an nghỉ của các cha xứ, hẳn họ vẫn đang tự hỏi mình, “Ra đi trong thanh thản. Nhưng đi đâu?”
Thiên đường của tôi là một tấm màn nước mỏng manh ngăn cách giữa cha mẹ tôi và tôi. Tôi sống sót bởi vì tôi đã bước qua tấm màn đó và đi sang phía bên kia. Odette và Wilner đã chết vì họ đã không đặt chân qua được bên kia tấm màn.
Tôi chưa bao giờ nhìn đời bằng đôi mắt ngây thơ hay mù quáng. Tôi biết rằng một cuộc thảm sát sẽ xảy ra. Tôi biết rằng nước của những con suối sẽ nhuộm đỏ màu máu. Tôi cũng biết cách nói “pèsi” giống như cách tôi biết nói “perejil.”
Bạn sẽ ngạc nhiên khi phát hiện ra chúng ta sử dụng giấc mơ của mình vào việc tự làm mờ mắt mình, hay mang chúng theo bên người như những lá bùa hộ thân bảo vệ chúng ta khỏi những lời nguyền độc địa.
Những giấc mơ của tôi bây giờ chỉ còn xoay quanh những lời chứng mà tôi chưa được nói với ông thẩm phán trị an, với chính Generalissimo.
Ông ta đòi hỏi “perejil,” nhưng còn rất nhiều những từ khác mà tất cả chúng tôi đều biết cách nói. Có lẽ chỉ một từ đơn giản như vậy không thể cứu mạng chúng tôi. Nhưng nhiều từ khác có thể và sẽ cứu rỗi chúng tôi.
Mỗi ngày trôi qua khiến tôi suy nghĩ nhiều hơn về nấm mộ của Joël. (Và cả của Wilner, Odette, Mimi, và Sebastien nữa.) Cơ may để tôi tìm được nơi an nghỉ cuối cùng của họ cũng ngang ngửa việc bắt được một ngôi sao đã bùng cháy và rơi xuống trên nền trời vào chính cái đêm mà mỗi người bọn họ rời bỏ thế gian này.
Càng nghĩ về những nấm mộ của họ, tôi càng hình dung rõ ràng nấm mộ của chính mình: một bia đá đơn giản mà trên đó chỉ khắc độc tên tôi và ngày tôi tạ thế.
Nhưng tôi muốn mọi người biết rằng tôi hiểu. Tôi nhìn thấy tất cả những thứ đó. Chỉ có điều tôi đã tưởng rằng chúng sẽ không nhìn thấy tôi. Tôi những tưởng rằng chúng sẽ không tìm ra tôi. Chỉ đến khi Mimi và Sebastien bị bắt đi thì tôi mới nhận ra rằng dòng sông máu đã chảy tới trước cửa nhà mình, rằng nó vẫn luôn ầm ào chảy ngay trong nhà của tất cả chúng tôi.
Tôi từng nghe một cụ già nói rằng những người chết truyền lại những câu chuyện của họ cho con cháu vì họ chẳng dùng chúng vào việc gì được nữa. Những câu thành ngữ, những tiếng chép miệng, những lời chửi tục, thậm chí cả những tên rên rỉ kêu la vốn từng được đặt vào những vị trí đặc biệt trong một cuộc đối thoại thì nay đều được truyền lại cho người thừa kế tiếp theo.
Tôi luôn cảm nhận sức nặng thường trực của dòng sông đè lên hai tai mình. Màng nhĩ của tôi căng lên chịu đựng như một tấm gỗ kẽo kẹt, sắp sập xuống dưới sức nặng của cả tấn đá núi. Con sông há miệng và nuốt chửng tất cả những ai lội vào trong dòng nước, bất kể đàn ông, đàn bà, hay trẻ con, như thể bao tử họ nặng chịch toàn đá.
Đối với những kẻ cố gắng làm thế giới trở nên câm lặng, điều làm chúng bực bội nhất là phát hiện ra rằng bên trong đầu chúng tôi luôn ẩn chứa những tiếng nói. Với mỗi ngày trôi qua, những tiếng nói đó lại lớn mạnh lên, âm vang hơn đến mức có thể át được những tiếng lao xao của thế giới bên ngoài.
Cuộc thảm sát đó là thứ duy nhất mà tôi có thể truyền lại. Tất cả những gì tôi muốn làm là tìm một chỗ để thi thoảng đặt nó xuống, một cái tổ an toàn nơi những câu chuyện sẽ không tan tác bay theo gió, hay bị chôn vùi vĩnh viễn dưới lòng đất.
Đôi lúc tôi chỉ cần đặt nó xuống mà thôi. Ngay cả trong sự im lặng tịch mịch hiếm hoi của màn đêm khi không có bóng người nào xung quanh.